Đặc biệt, tôi về nhà, giật đứt mấy cái dây điện trong tivi, đài đĩa của bố mẹ, rồi kêu nó hỏng, rồi giả vờ tử tế cõng tivi đi sửa. Nối cái dây là xong, nhưng tôi về nói sửa hết 1 triệu đồng, thay đồ mới tốt hơn cả đồ cũ bố mẹ ạ.
Cuộc đời nhọc nhằn của cha
Tiến tới tôi mượn xe của anh rể, một sỹ quan quân đội “đi có việc”, rồi đem ra hiệu, thay hết phụ tùng Nhật bằng phụ tùng Tàu. Mỗi cái xi nhan, mỗi cái giảm sóc đổi bằng những chầu ma túy no nê. Hết xe của anh chị, tôi đổi cả đồ của xe hàng xóm, bạn bè nhà anh chị Hoài- Nga. Gọi điện dụ dỗ vay tiền khắp nơi. Đặc biệt, tôi về nhà, giật đứt mấy cái dây điện trong tivi, đài đĩa của bố mẹ, rồi kêu nó hỏng, rồi giả vờ tử tế cõng tivi đi sửa. Nối cái dây là xong, nhưng tôi về nói sửa hết 1 triệu đồng, thay đồ mới tốt hơn cả đồ cũ bố mẹ ạ. Đặc biệt, tôi còn đi “tập thể dục buổi sáng” bằng cách bắt một thằng nghiện nữa chở bằng xe máy đi dọc bờ sông buổi sáng, dọc các kênh mương chiêm trũng, sang xã bên, lúc ấy người nông dân nghèo đạp xe ra ruộng hái ngô, hái rau muống để kịp về chợ bán. Tôi cứ đi lờ dờ trong sương mờ, trong mưa bụi lây phây. Ai đó sơ ý, chổng mông bên ruộng rau muống một lúc là bị tôi nẫng mất cái xe đạp. Đem bán tống bán tháo, đổi lấy một liều tiêm chích tôi cũng thấy hài lòng rồi. Tiến tới tôi đi trấn lột, xin đểu, bảo kê cho cờ bạc trên các tuyến xe khách đường dài. Lưới trời lồng lộng, có lần tôi bị người ta bắt trên phố Hà Nội lúc đang ăn trộm xe đạp, bị đánh hội đồng rồi tống vào buồng giam công an phường, công an quận.
Bố tôi chứng kiến hết những nỗi đau để đời để kiếp đó. Có lần, trong ánh chiều bảng lảng chấp chới nắng quái trên trần nhà tôi, với một ấm trà và hai cái chén nhỏ xíu. Hương trà mạn bay lơ mơ. Chầm chậm, ông nói từng lời, từng lời nhấn nhá như len lỏi thấm sâu vào từng tế bào nhỏ nhất trong cơ thể tôi. Ông khóc, nước mắt của người lính đã từng qua hai cuộc chiến trở về dường như chẳng còn bao nhiêu nữa. Ông kể chuyện mà đôi mắt nhìn vào hư vô. Tôi hiểu, ông kể để tự tôi rút ra kết luận, từ tôi suy nghĩ và hành động mà thôi.
Bố sinh ra ở xã Yên Lộc, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Xóm làng thanh bình với cây đa, giếng nước, sân đình. Hồi ấy, ông nội dạy chữ Nho trường làng cho các em nhỏ. Khi giặc Pháp xâm lược nước ta, ông nội rời quê nhà, bỏ lại đám học trò “nhân chi sơ là sờ tí mẹ” để ông đi hoạt động cách mạng. Bà nội ở nhà tần tảo gánh hàng ra chợ, khi thì mớ rau, lúc con tôm, cái tép, nuôi các con khôn lớn trưởng thành, rồi dựng vợ gả chồng. Cha tôi là con út, sinh ra mới được tròn hai tuổi thì chuyện kinh hãi xảy ra. Người già kể lại, đang bình yên trong hai tiếng ru ầu ơ của mẹ, thì trong một đêm mưa giông, giá rét, ông đi công tác bí mật, mọi người trong thôn bỗng nghe tiếng gào khóc khát sữa của cha tôi. Tiếng kêu con trẻ xé lòng giữa đêm khuya mưa bão bịt bùng. Bà con chòm xóm chạy sang thì thấy bà nằm giữa sàn nhà, còn bố đang bò lổm ngổm ngơ ngác bên người mẹ thân yêu đã tắt thở lạnh ngắt từ bao giờ. Ông nội rơi vào cảnh gà trống nuôi con. Phần vì thương nhớ người vợ trẻ đoản mệnh, phần vì bệnh tật, một năm sau ông cũng bỏ cha tôi “ra đi mãi mãi”.
Tuổi thơ của cha phải đi ở nhờ nhà các anh, các chị nghèo khó, lớn lên bằng sự cưu mang bao bọc của những người hàng xóm tốt bụng. Lên bảy tuổi, cha tôi đã phải đi ở đợ cho nhà một người giàu trong thôn. Sáng sớm đi chăn trâu, tối ngủ đầu hè, dẻo tay chiến đấu với muỗi, dĩn ở vùng đất mới lấn biển cách đây chưa lâu. Cha tôi phải sống bằng những thứ cơm thừa, canh cặn người ta bỏ đi. Năm 14 tuổi ông ra ở riêng, một thân mồ côi cả bố lẫn mẹ. Sáng đi chăn trâu thuê, trưa tranh thủ đi mò cua, bắt cá đổi lấy gạo ăn qua ngày đoạn tháng. Rồi có hôm gặp cánh đồng chiêm trũng, cá rất nhiều, cá lách rách luồn qua từng gốc rạ sau mùa gặt, cá chui vào những hố chân trâu còn đọng nước, bố tôi miệt mài bắt được hai giỏ cá đầy. “Trúng quả” với món cá chân ruộng rạ, thì cũng là lúc con trâu thả sức xông vào ăn lúa bên thửa ruộng người ta chưa gặt hết. Tối ấy, bố bị chủ cho nhịn cơm và đánh cho một trận nằm ba hôm mới dậy được. Những con lươn con chạch đỏ ngầu trên da. Tỉnh dậy, miệng đắng nghét, bụng đói như từ lúc sinh ra chưa bao giờ được ăn, toàn thân rã rời không cử động được, bố vẫn mỉm cười nhìn đàn lươn chạch đỏ lừng trên thịt da mình mà nghĩ tếu táo rằng, “chắc bọn lươn chạch này hiện về trên đùi, trên mông, trên ngực mình là để trả thù cho bọn cá tép vừa bị mình tóm sống lúc chiều. Bọn ấy giờ bị ông bà chủ đem kho lên ăn cả rồi…”. Hôm đó, bố nhớ, là lần đầu tiên bố thực sự khóc vì nhiều lý do. Có lẽ vì bố đã đủ lớn để thấm thía cảnh mồ côi cha mẹ, đi ăn nhờ ở đợ nhà địa chủ có máu lạnh của loài rắn. Bố bảo, có khi từ lúc cất tiếng khóc chào đời đến buổi ấy bố mới phải khóc lần thứ hai.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra, bố làm liên lạc cho xã đội, được một thời gian rồi xung phong đi học Thiếu sinh quân. Vào bộ đội, huấn luyện xong, về thăm nhà với bộ quần áo Giải phóng quân, lưng đeo súng trường. Lúc ấy bố vẫn bé loắt choắt, dựng khẩu súng dưới chân, mà súng còn nhô cao hơn đỉnh đầu bố. Rồi bố gặp mẹ qua những lần đi làm liên lạc cho xã đội.
Chiến tranh ít có điều kiện về thăm nhau, nhưng hai người đã thầm yêu nhau từ dạo ấy, những cánh thư, những tin chiến thắng gửi về là những món quà vô cùng to lớn cho mẹ. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc hoàn toàn giải phóng năm 1954, bố vẫn chưa có điều kiện cưới mẹ vì quá nghèo, phần vì ngày đó mẹ còn đang đi học lớp y tá trên tỉnh. Bố tiếp tục đi học, mãi cho đến tận năm 1959, bố mới báo với tổ chức để xin phép cưới mẹ.
Cưới nhau được một tuần, bố lại phải đi chiến trường. Mẹ đưa bố ra ga tàu với hai hàng nước mắt lã chã. Sau đó, những lá thư thắm đượm tình cảm của bố gửi về, từ nơi chiến trường xa tít, nó là nguồn sinh dưỡng, là lời Thánh ca trong lòng mẹ. Năm 1962, bố về phép được một tuần, rồi bố lại đi, đi biền biệt cho đến khi chị gái tôi được sinh ra. Bố mẹ vui mừng khôn xiết. Bố xin với tổ chức, rời “thiết quân luật”, được nghỉ phép ba ngày. Bố về thăm quê, bế chị còn đỏ hỏn trong tay, bố vừa ru vừa khóc, bố cũng như những người đàn ông khác, bố muốn một cuộc sống thanh bình bên người vợ yêu thương, bên đứa con gái kháu khỉnh mới cất tiếng khóc chào đời, bố muốn chiến tranh không xảy ra để được ở bên vợ, bên con, dù là bữa rau bữa cháo. Nhưng đế quốc Mỹ nào để yên! Giang sơn gấm vóc này, có hàng vạn người phải “xếp bút nghiên theo việc đao cung”, dứt áo rời vợ trẻ con thơ để đối mặt với kẻ thù như thế. Bố hiểu chỉ có con đường cầm súng thì mới giành lại được độc lập tự do, con gái ông ngày nào đó mới được cắp sách tới trường trong sự bình yên đích thực.
Được ba hôm, nén lòng lại với tình cảm riêng tư của mình, bố thắp hương trước bàn thờ gia tiên, cảm ơn gia tiên đã phù hộ cho ông đạp lên đầu mọi bom đạn của kẻ thù để vẹn toàn được đến ngày hôm nay, để vợ chồng ông có được một người con gái như thiên thần bé như thế này. Rồi tay khoác ba lô, tay bế con, mẹ tôi tiễn bố ra tận đầu ngõ. Mẹ bảo, bố khoác ba lô cả đời trận mạc, từ nhà ra đầu ngõ, để mẹ khoác giúp bố một thôi đường. Đôi mắt ông đỏ ngầu vì cảm động, vì biệt ly đứa con đỏ, thiên thần bé của ông. Hai hàng nước mắt chảy của mẹ chạy dài xuống tận cổ, bố chỉ kịp nói:
- Em ở nhà nuôi con khôn lớn, đợi anh về! Anh sẽ về...
Rồi bố lại đi, bố đi với một niềm tha thiết, một sự đau đáu tuyệt vời, ấy là khát vọng độc lập tự do của cả dân tộc. Bố đi dài đến mức, xóm làng đã nặng trĩu lo toan khi nhìn dáng mẹ tôi khô héo vào ra nuôi con nhỏ. Có người thở dài, bởi chiến tranh không phải trò đùa. Hồi ác liệt ấy, có khi ngót chục người đi chưa có đủ một hai người trở lại. Đằng này bố đi một mạch cho tới tận ngày nước nhà thống nhất, để mẹ tôi ở nhà một mình với biết bao những khó khăn vất vả của đất nước thời bao cấp, thời cả dân tộc thắt lưng buộc bụng chi viện cho tiền tuyến lớn. Mẹ kể, những đêm mưa giông bão tố mẹ đã thật sự sợ hãi, thật sự khóc hết nước mắt vì nỗi lo đắng lòng, sao chồng mình đi ra ngoài bom đạn lâu thế. Đứa con đỏ ấp iu trong lòng, nó chưa đủ lớn để biết chia sẻ với mẹ một câu nào cả...
Năm 1972, giặc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, từng đàn B52, đủ “con ma”, “thần sấm” cứ bay rợp trời, bay như cào cào hết chỗ đậu sau mùa gặt. Cả miền Bắc ngập tràn trong khói lửa, nhiều nơi nhà đổ, người chết, cây cối tan hoang. Nghe tin B52 trải thảm phố Khâm Thiên, cả phố phủ màu tang, bố tôi ngoài chiến trường mà lòng dạ thắc thỏm không yên. Chỉ còn biết cầu trời khấn Phật, mình ở hiền gặp lành, mong sao quê, mong sao mẹ và chị gái tôi được bình yên.
Đất nước được giải phóng, nước nhà được độc lập hoàn toàn, bố mang theo khúc khải hoàn ca của người lính trở về, rồi bố được chuyển về Hà Nội công tác để có thời gian gần nhà hơn. Tôi được sinh ra cùng với những khó khăn của những năm đầu đất nước được giải phóng. Năm 1983 bố nghỉ hưu, bấy giờ tôi mới 6 tuổi đầu.
Bố dừng câu chuyện lại, có lẽ ông nghĩ ra, từ hồi bố nghỉ hưu, tôi 6 tuổi, mọi nghèo khó, mọi vất vả của bố mẹ thì tôi đã biết cả rồi, không cần nói dài dòng nữa. Hai hàng nước mắt lã chã, cùng với sự đau khổ tột cùng của mình, ông nói:
“Cuộc đời bố đã hi sinh tất cả, để đến ngày đất nước được thanh bình như hôm nay, các con được cắp sách tới trường, được khôn lớn trưởng thành để làm người có ích cho xã hội. Khi con học giỏi, con vào trường Cao đẳng học, khỏi phải nói bố đã vui đến mức nào. Nhưng đến bây giờ... có lẽ sự hi sinh của bố là vô nghĩa khi con trở thành một kẻ dặt dẹo như thế này. Con đã đánh mất cả tuổi trẻ, cả tương lai của mình. Con đã đánh mất cả niềm vui tuổi già và niềm kiêu hãnh thời trận mạc của bố...”
Bố mẹ ơi, người già như chuối chín cây, con đã lớn, đã ngoan và đã hư, đã làm bố mẹ tự hào và tuyệt vọng, nhưng chưa bao giờ trong mắt bố mẹ, con thôi là một cậu bé cần được cưu mang, bảo bọc. Bố ôm lấy tôi, bố như vẫn muốn che chở tôi trước bão giông sự đời hôm nay.
Tôi đã khóc, tôi đã khóc như một đứa trẻ, tôi khóc với nỗi đau của bố, của mẹ, của cả đại gia đình. Tôi nghĩ, chắc chị gái mình cũng đau lòng lắm. Đúng lúc đó, những hình ảnh hy sinh anh dũng của cậu mình hiện về trong đầu tôi. Tôi chỉ nghe kể, bố mẹ kể và ai đó kể nữa thì tôi không biết, chỉ biết rằng cậu cứ hiện về trong suy nghĩ của tôi, như là tôi đã chứng kiến cả quãng đời binh nghiệp, cả giây phút chiến đấu và hy sinh cuối cùng của cậu vậy. Trong đầu tôi như văng vẳng câu nói của cậu:
- “Cố gắng lên con, hãy cố gắng nữa lên con”.
Bố vẫn ôm vai tôi, như hai gã đàn ông bạn bè ngồi bên bàn trà. Bất ngờ, bố nói:
“Tại vì lúc nãy bố buồn quá, chứ đời con còn nhiều cơ hội lắm, con còn trẻ. Bố chưa bao giờ hết hy vọng ở con. Bố lăn lộn chiến trường, thấy cái chết kề sát mang tai bao nhiều năm trời, chứ việc con nghiện ma túy mấy năm, bố chưa thấy có gì nguy hiểm quá cả. Bố tin là con sẽ bỏ được, nếu con thực sự có lòng thương yêu kính trọng bố mẹ.”
Sau buổi ấy, tôi như tỉnh ngộ được thêm rất nhiều. Tôi lại... cố gắng, cố gắng mãi nhưng không bỏ được. Cả nghìn đêm mất ngủ, quyết tâm lắm, căm hận ma túy và bạn bè rủ rê mình lắm, căm hận cả sự buông tuồng hư đốn của mình lắm, nhưng không hiệu quả. Đơn giản vì tôi đang phải đối mặt với một thứ, thứ ấy ăn vào máu tôi từ lâu, nó là ma túy. Như thường lệ, chơi thuốc xong rồi tôi lại khóc, vì mình đã không chiến thắng được mình, tôi chỉ mong mình chết đi cho mọi người đỡ khổ. Thân hình tôi bấy giờ rất xanh xao, tôi nghiện nặng thêm, đồng nghĩa với những nếp nhăn nhiều hơn trên trán của mẹ, với cả những cái thở dài bất lực của bố. Và hôm nay, ông ôm vai tôi tâm sự rất dài, tôi đã cảm kích đồng ý với phương án để cho ông tìm cách cai nghiện cho cậu quý tử của mình.
Vì nghĩ rằng nếu cách ly với bạn bè tôi có thể bỏ được ma túy, cả đại gia đình tôi, các cậu, dì tôi liền họp lại và quyết định đưa tôi lên tỉnh Yên Bái chỗ người cậu thứ tư - cậu Ký của tôi để xa rời bạn nghiện và kéo tôi về với nẻo sáng của cuộc đời. Ngày đó cậu đang làm ở Sở Xây dựng tỉnh, còn mợ tôi làm ở văn phòng.
Vào năm các từ 1997 đến 1998 thì phải, tôi lưu lạc ở Yên Bái để cai. Bố đưa tôi đi trên chuyến tàu từ Hà Nội lên Yên Bái với gương mặt đầy lo toan. Ông sợ tôi buồn, cứ liên tục động viên, mẹ thì nắm tay tôi, con đi mẹ nhớ lắm. Nhưng không bỏ được ma túy thì chẳng thà con giết mẹ đi còn hơn. Lòng buồn rười rượi, tôi hiểu rằng, bằng mọi giá, tôi phải làm được những gì tốt nhất để kéo mình về với nẻo thiện của cuộc đời. Bố mẹ sẵn sàng làm tất cả để cậu quý tử của họ cai được heroin. Tàu xuất phát từ trưa tại ga Hàng Cỏ, lúc 7 giờ tối hai bố con xuống tàu, phố núi tỉnh lỵ Yên Bái đã lác đác sương giăng.
Đêm về. Ngồi uống chén nước trà trong mưa bụi giăng mắc, vạn vật phủ một lớp sương mờ lơ mơ, một nhà ga đồng rừng xa lạ. Tôi cay đắng nghĩ: giá mà mình hiển đạt lên xe xuống ngựa ngược đồng rừng thăm cậu, kết hợp nhàn du vãn cảnh Yên Bái thì vinh dự bao nhiêu, lãng mạn bao nhiêu. Chứ nay để bố ốp như giải tù binh lên đây cai nghiện cho mình thì tủi sầu quá đỗi. Tôi vừa ngồi, đã thấy ánh mắt của một gã gầy gò nhìn tôi chằm chằm. Đôi mắt hình viên đạn! Thoảng trong gió có mùi thuốc phiện, mùi heroin đặc trưng lắm. Áo quần anh ta nhàu nhĩ. Gương mặt ám khói. Cơ thể tiều tụy, da tái nhợt, gương mặt giảo hoạt. Nó toát ra một cái mùi hôi hám kỳ lạ, như con vật nào đó vừa ra khỏi hang sau thời kỳ ngủ đông dằng dặc ấy. Tôi gật đầu chào, anh ta mỉm cười méo mó. Hai con nghiện đã bắt sóng được với nhau. Và như trời đã định, như sự đốn mạt trong hai thằng đã cú vọ báo tin chết chóc từ trước, ở nhà cậu tu chí làm nghề cửa hoa cửa sắt ít lâu thì tôi trốn ra ga tàu Yên Bái, dan díu ma túy cùng chính cái thằng nghiện ấy. Gã ấy, là cũng là người đầu tiên tôi nhìn thấy, kể từ khi xuống đến sân ga xa lạ đó.
Chợt có người bíu vai gọi giật giọng: Có phải Tuấn không? Cậu Ký đây! Tôi và bố cùng à lên. Cậu Ký. Cậu mợ tôi đã ra ga đón từ bao giờ. Đại gia đình chúng tôi, cậu thương tôi nhất. Chắc chắn cậu sẽ rất đau khi nhìn thấy đứa cháu mà cậu rất kỳ vọng lại rơi vào thảm cảnh như hôm nay, nhưng cậu ý nhị không bày tỏ điều đó khi có mặt tôi. Hai em của cậu đều đã lớn, cả em Huy và Minh đều rất ngoan ngoãn, nghe lời cha mẹ, chịu khó học hành. Gửi tôi ở Yên Bái, bố ở cùng tôi tại nhà cậu được hai hôm thì ra ga tàu trở về quê. Tôi ở lại với gia đình cậu và mợ.
Mợ tôi chăm sóc tôi từng bữa ăn, giấc ngủ, cậu bận công việc phải đi tiếp khách thường xuyên, thế mà từ hôm tôi lên cậu cũng không đi giao đãi nữa. Cậu bảo, ở nhà ăn cơm cùng thằng cu Tuấn cho nó tình cảm, rồi cậu nhìn tôi cười bao dung. Tôi ứng xử với cậu, còn thoải mái, cởi mở hơn cả với bố của tôi. Tôi hiểu, cậu đang cố động viên tôi. Nhà cậu làm cửa hoa, cửa sắt, được mấy hôm tôi lao vào học việc cùng với em rể của mợ tôi. Tôi cũng cố gắng làm, tôi ý thức rất rõ là mình phải làm việc thật hăng say để có thể quên đi ma túy, để giã từ cái thứ thuốc độc chết người đó. Và tôi đã làm được những chiếc cửa sen hoa rất đẹp, những bông hoa sắt do tôi làm ra nó rất có hồn chứ không méo mó, vẹo vọ như của một số người thợ đang “cạnh tranh” khác. Rồi tôi cũng nguôi ngoai đi được một thời gian.
Hàng ngày, cậu mợ cho hai em ở nhà học bài, kè kè bên cạnh anh, tôi dù nhớ thuốc cũng không trốn đi đâu được. Hai đứa em, cậu mợ nữa, tất cả đều thương tôi cho nên phần vì sợ bố mẹ buồn, phần vì nể gia đình cậu chăm chút mình quá, có khi giữa trưa, hai em học nhiều lăn ra ngủ thiếp đi, tôi có cơ hội thoát khỏi tình trạng giam lỏng, nhưng tôi đã không trốn đi với ma túy. Nhưng rồi, đến hôm đi phun sơn ở cửa sắt của một Sở nọ trong tỉnh, lay lắt nhớ đến mùi thuốc phiện, heroin trên áo của gã ngồi bên quán nước ngoài ga Yên Bái đã gặp hôm trước, lòng tôi nôn nao khó tả. Chiều chuộng cảm xúc của mình một chút thôi, tôi đã hư đốn. Tôi lẻn đi chơi, như ma đưa lối quỷ đưa đường, vừa ngơi việc sơn cửa, uốn sắt thép ra, tôi thoáng nghĩ ngay đến heroin. Không biết bằng thứ khả năng kỳ diệu nào, mà ngay lập tức tôi bắt được xe ôm ra ga tàu hỏa Yên Bái. Tôi đã cuồng quẫy, lao như thiêu thân vào cái xóm bụi đời đó. Tôi hỏi mua ma túy, qua những ánh mắt dò xét, đề phòng, qua các câu hỏi kiểm tra lành nghề của bọn bán cơm đen và cái chết trắng rồi mãi chúng cũng cấp cho tôi một liều thuốc lên tiên. Cảm giác thì lên trời, còn nhân cách thì rụng xuống đất đen. Run rẩy cầm liều thuốc, tôi vội vàng sử dụng ngay, như thể là nếu không nhanh tay thì sẽ có ai đó cướp mất. Như thể là nếu không có nó thì tôi sẽ chết ngay lập tức, không còn có mặt ở bình minh ngày hôm sau nữa. Sau những tháng ngày cơ thể thiếu thuốc vật vã, cơn say lên đến đỉnh điểm. Bao chắt chiu, bao lo toan chăm sóc của người thân, bao nỗ lực hoàn lương của bản thân tôi bỗng chốc tan biến. Rồi cứ như thế, lén lút, giấu giếm, cứ mỗi khi có điều kiện là tôi lại trốn đi khỏi nhà cậu để đến với Xóm Bụi Cửa Ga.
Chơi xong, quay ra thì tôi nhìn thấy cái gã hôm trước đã đem mùi thuốc phiện, heroin, đem màu da tái xám và gương mặt ám khói đến trước mặt rồi mỉm cười quái quỷ với tôi. Đời sao lại lắm trò oái oăm thế. Hắn vẫn nhếch mép mỉm cười, nụ cười héo hắt nham hiểm, gương mặt xám xịt như tử thần. Hóa ra hắn tên Son, cũng là con một đồng chí cán bộ to phe và tăm tiếng ở Yên Bái. Son cho tôi thuốc, tôi lại chơi ngấu nghiến như con mèo vớ được cá rán. Rồi cũng có lúc tôi tỉnh, tôi bảo hay là hắn lợi dụng gì mình? Nhưng không, con nghiện nó cõng theo lắm ác quỷ nhưng cũng có kẻ tử tế còn sót lại. Son bảo, trông mày tội nghiệp quá, cùng cảnh ngộ thì tao thương xót thôi. Không lợi dụng mày đâu, mà mày có gì để anh lợi dụng cơ chứ? Và đến bây giờ, quả thực Son vẫn chưa bao giờ lợi dụng hay làm gì xấu xa với tôi cả. Có lần hắn bảo tôi, nếu muốn kiếm thêm thì anh giới thiệu cho chú đi áp tải gỗ pơ-mu trên tàu về xuôi, nhanh gọn lại lắm tiền. Chú thích đi thì đi, không đi thì thôi, anh không ép. Mỗi ngày người ta trả 200 nghìn tiền công, bằng lương giám đốc Sở đấy. Việc nặng nhọc đấy, việc nguy hiểm, chỉ có bọn nghiện không còn gì để mất như bọn mình mới dám đi thôi. Tôi bấy giờ nặng có 42kg, đi một đêm được 200 nghìn, tiền bấy giờ còn to lắm, thế thì tôi thấy sướng quá, hút hít chích choác thả phanh nhé. Tuy nhiên, công việc ấy có thể bị công an, kiểm lâm tóm cổ bất cứ lúc nào. Bị bè lũ cạnh tranh khử bất cứ lúc nào. Đặc biệt, thân hình gió thổi bay oặt ẹo như thân cây thuốc phiện, da xanh tái như lá cây anh túc... có 42kg của tôi quá mong manh trước tốc độ ào ào của tàu hỏa, trước cái rung lắc kít két của đêm đen đường trường, sợ nhất là lúc lao gỗ ra khỏi tàu đang tàu chạy. Sểnh cái là mình lao theo gỗ, là mất mạng như chơi. Đi được vài chuyến, tôi đành bỏ nghề.
Vì tôi vắng nhà bất thường, nên cậu mợ tôi đã nghi ngờ lắm. Có hôm, ban ngày, thấy tôi đi cứ khoảng 40 phút mới về, mà về mắt lại lờ đờ mệt mỏi, giọng lại khàn khàn và không muốn làm cửa hoa cửa sắt gì nữa cả, mợ đã nhìn tôi đầy lo lắng. Mọi người cùng cố gắng bao nhiêu để lôi tôi ra, thì tôi lại càng lao sâu vào vực thẳm oan khiến của ma túy bấy nhiêu.
Thấm thoắt đã một năm tôi gắn bó với đất và người Yên Bái. Tôi xin về quê “nghỉ tết”, cậu Ký trao đổi kỹ với bố mẹ tôi, rồi ngậm ngùi đưa tôi ra tàu. Cậu khóc bật ra thành tiếng, khóc vì thương tôi, thương chị gái của cậu (mẹ tôi). Cậu Ký bảo, cậu thương mẹ tôi lắm, chị em khúc ruột trên khúc ruột dưới, mỗi người giờ sống một phương. Một mình mẹ tôi đã lặn lội sớm hôm suốt đời, đến lúc về hưu vẫn quá khổ. Từ năm 13, 14 tuổi mẹ tôi đã phải đi mò cua bắt tép bán đi lấy tiền đong gạo để nuôi các em, lúc khôn lớn trưởng thành mỗi em một phương trời, một người em vĩnh viễn nằm lại trong chiến trường, lúc bấy giờ vẫn chưa tìm được phần mộ. Nhà đông em, 18 tuổi mẹ vẫn đen xì, bé như đứa trẻ 13 tuổi. Ông bà tôi vẫn trêu đùa rằng mẹ tôi “bé như cái kẹo”.
Bấy giờ, ông ngoại tôi làm cán bộ phòng Tài chính trên huyện nên thường xuyên phải vắng nhà. Bà ngoại thì ốm đau, bệnh tật liên miên, mình mẹ tôi với bao lo toan vất vả, một nách 6 đứa em qua tay mẹ tôi nuôi nấng khôn lớn trưởng thành tất. Các cậu và dì tôi cũng đều tốt nghiệp đại học hết. Phải nói, bây giờ có một gia đình như thế đã là kỳ tích, chứ đừng nói thuở trước, cái thuở mẹ tôi (năm nay, 2013, đã 75 tuổi) còn son trẻ, đất nước còn tràn ngập khó khăn. Được thừa hưởng gien từ bà nên mẹ tôi rất chăm chỉ làm việc, biết thu vén gia đình. Đông em, nhà đói, những cái đói giáp hạt cứ xảy ra như cơm bữa, mẹ tôi làm việc không lúc nào ngơi nghỉ, hết việc nhà là mẹ lại đi mò cua ngoài đồng về đổi lấy bơ gạo, rổ sắn. Mẹ chưa lúc nào được rảnh rỗi, được nhàn hạ theo đúng nghĩa của nó...
Cậu chưa dứt lời thì một hồi còi vang lên! Tàu chầm chậm rời ga mang theo cả tấm ân tình mà cậu mợ đã dành cho tôi. Hôm đó, lại từ đêm tới sáng, tàu chạy ầm ĩ tôi không sao ngủ được, tôi ra hành lang đứng hút thuốc (ngày đó tôi cũng nghiện thuốc lá nặng). Đứng chán đi chán lại vào nằm. Tôi cứ nghĩ miên man, thiếp đi cho đến khi tàu tới ga Hà Nội. Vừa xuống đến sân ga như có ma xui, quỷ khiến, tôi lao vào ngay xóm bụi Thanh Nhàn trước khi về thăm cha mẹ. Một giờ sau tôi về nhà khi đã sử dụng xong một liều heroin. Đại gia đình quyết định cho tôi ở Hà Nội với chị gái và anh rể cùng các cháu. Họ muốn tôi cách ly hoàn toàn tôi với bạn bè xấu, với ma túy, với vũng bùn tội lỗi sâu thăm thẳm đang đợi chờ tôi ở các xóm nghiện quen thuộc.
Mọi người đưa tôi lên nhà chị gái và anh rể, vì nghĩ rằng lên đó tôi sẽ có nhiều khả năng cai nghiện được chăng? Mọi người không hình dung được là: ở nhà anh chị được hai hôm cơn nghiện lại hành hạ cơ thể tôi. Nó vật vã, kêu gào, nó như có ròi bò nhung nhúc trong người, trong xương tủy và cả trong trí não. Tôi, xấu hổ thay, đã trèo tường trốn đi chơi ma túy bất chấp giọt nước mắt lo lắng và van vỉ của chị gái.
Ở nhà anh chị được hai ba hôm hết tiền, đúng lúc đó anh vừa mua được chiếc xe máy mới cho chị đi làm. Nhân tính mất hết, lương tri cũng chẳng còn, phần Con trong tôi đã lớn hơn phần Người, khi tôi nhẫn tâm mang cái xe đắt đỏ mà bao năm anh chị mới ky cóp mua được ấy đi. Tôi đem đổi hết mọi thứ quý giá trong chiếc xe máy Nhật của chị, thay vào đó là đồ Tàu rởm rít lọc xọc. Dôi dư ra kha khá tiền, tôi đã quăng thân vào xóm liều để mua ma túy. Nhưng rồi, như đã nói “thuốc phiện ăn lên, củ mài ăn xuống”, được vài hôm, tôi đã đốt hết số tiền đó trong ma túy. Lại những lời hứa nay lần mai lữa, vẫn là những bài nói dối muôn thuở của những thằng nghiện, tôi xin lỗi chị gái và anh rể xong, được vài hôm lại mượn xe của vợ chồng anh Hoài, chị Nga (là hàng xóm của anh chị tôi). Lại mang xe xịn ấy đi đổi hết cả giảm xóc trước, giảm xóc sau, đèn, phanh, còi, bi, trục... sang đồ Tàu, để có tiền mua thêm mấy liều ma túy. Tôi, sau đó đã chính thức bước chân vào vực thẳm khôn cùng của tội lỗi, cùng với rất nhiều thanh niên khác thời đó.
Tôi đã viết vào nhật ký của mình hôm đó, như sau: Vâng! Ma túy là như vậy, nó đã làm cho phần Con lấn át đi phần Người trong chúng ta, đã làm cho xã hội đảo điên, băng hoại đạo đức, có nguy cơ dẫn tới suy đồi cả một thế hệ trẻ. Nghĩ vậy, khóc lóc vậy, nhưng khi lên cơn vật thuốc, tôi lại hành động ngược lại. Khi số tiền có được từ việc đổi đồ chiếc xe của chị Nga bị tiêu tán hết trong các xóm liều bán ma túy thì tôi đã rất hoang mang. Có vẻ như, tất cả những con đường, mọi ngóc ngách đểu giả nhất để có thể đến được với đồng tiền dơ bẩn phục vụ các cơn nghiền ma túy đều đã khép lại. Tôi chưa nghĩ ra cách nào để kiếm tiền. Vì hàng xóm thấy tôi là đi cất điều khiển ti vi, đi khép cổng, ai có xe đạp xe máy thì khóa kỹ, vay tiền, mượn xe đối với tôi lúc đó cũng... khó như lên trời.
Cất bước lang thang với cơn đói thuốc hành hạ trong cơ thể, tôi đã bỏ nhà anh chị đi dạt khắp nơi, đi với cả những loại người lưu manh tận đáy của xã hội, với xóm bụi Thanh Nhàn, với bãi rác Thành Công độ loạn ly ấy. Tôi dường như đã chấp nhận làm tất cả những gì có thể làm để đổi lấy ma túy. Cuối cùng thì tạm ấm chỗ với nghề đi bảo kê sòng bạc, đâm chém bất cứ ai để có thể lấy được một ít tiền từ tay các ông chủ khốn nạn. Những cái tên H. Liên xô, Đ. lệnh, P. cốm ở xóm liều Thanh Nhàn, rồi khu ga Giáp Bát hồi nhộn nhạo có lẽ không bao giờ tôi quên được. Sự đầu gấu của tôi đã lên đến đỉnh điểm, khi cơ thể tôi bị ma túy gặm mòn chỉ còn có 38kg, nhẹ hơn cả đứa cháu học lớp 6 hàng xóm nhà tôi. Không biết tại sao lịch sử đám bụi đời lại cho ra đời được cái nghề mời thuốc các anh bạn khi vừa chân ướt chân ráo về Hà Nội, khi vừa bước lên xe bus, xe khách đường dài ở khu vực Giáp Bát. Giắt con dao hung ác, sẵn vài bao thuốc thơm lựng vỏ thì đẹp mà bên trong chỉ có hai ba điếu. Bước lên xe, giả vờ loay hoay tìm chỗ ngồi, làm quen với những người trông có vẻ hào hiệp, sung túc, hiền lành một tí. Rồi rút điếu thuốc ra mời. Đợi họ hút xong thì xin tiền, điếu thuốc xin đểu 100 - 200 nghìn đồng thời bấy giờ. Xin đểu. Tao bán thuốc mày đã hút của tao. Rồi đâm chém, rồi đánh lộn. Kiếm được tiền đổ vào cái hang chuột không đáy tiếp nhận heroin của mình rồi, bỗng tôi thấy nhục nhã quá. Sao lại lợi dụng tình cảm của người đời như thế, sao lại thớ lợ lá mặt lá trái như vậy được? Nghiện thì vẫn là con người chứ có phải con vật đâu mà làm như vậy nhỉ? Con người thì phải có nhân cách chứ!
Thôi thì làm cái gì cho nó oai hùng một tí. Đi mời thuốc lá trấn lột, đi giật dây chuyền, túi xách của những người chân yếu tay mềm hèn quá. Tôi bấy giờ được gọi là Tuấn Văn Điển, họ đặt biệt danh như vậy vì tôi tung hoành ở khu Văn Điển, hoặc ai đụng vào tôi thì cứ là chấp nhận đi về nghĩa trang Văn Điển (tức là chết). Tôi được cài vào đi buôn vũ khí nóng. Bọn thằng P. cốm thuê tôi mỗi đêm đem vài khẩu súng, vài quả lựu đạn xuống cho “bộ đội” (đầu gấu) ở Hải Phòng, lúc đó những cái tên như S. cơm rồi D.hà vẫn còn đang nổi như cồn, dẫu có đứa đã bị 8 thằng đệ tử nổi loạn lật đổ giết chết treo cổ lên cây để phô trương thanh thế. Một đêm, đem vũ khí sang bên kia cầu Chương Dương rồi trở về, được trả lương tới 2 triệu đồng. Tôi có tiền có nhờ làm ăn phi pháp, thì mức độ tiêu sài ma túy của tôi càng tăng cao. Tôi càng đốt chết tuổi trẻ của mình nhiều hơn trong chất gây nghiện có nanh có vuốt kia. Đời tôi càng chìm dần trong thế giới tội lỗi.
Thuê vận chuyển vũ khí mãi, rồi đến lúc người ta cũng không thuê nữa. Không đủ tiền cho những cuộc chơi heroin, tôi phải đi ăn cắp, ăn cắp từ chiếc xe đạp, cho đến cái ti vi, hay những đồ vật quý giá của bất cứ ai mà tôi... trông thấy.
Rồi điều gì đến sẽ đến, nhân nào thì quả ấy. Trong một lần lang thang đi rình ăn cắp tại phường Phạm Đình Hổ, Quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội, tôi nhìn thấy chiếc xe đạp rất mới, đang dựng gần chợ mà vài người có vẻ mải trò chuyện không ai để mắt tới. Nhẹ nhàng. Mắt sáng rực nghĩ đến cơn phê. Tôi đến gần rồi nhảy lên xe, vù đi. Bỗng thấy rất đông người ào ra vây quanh, bấy giờ tôi gầy yếu liêu xiêu, không biết chạy đằng nào. Rồi những quả đấm vào mặt, những cú đá vào người, máu mũi, máu mồm thi nhau chảy. Tôi ngất lên, ngất xuống, tai vẫn nghe loáng thoáng tiếng người nói:
- Bắt được nó rồi…
- Quả này tao cho mày chết…
Tôi bị tạm giữ 24 tiếng đồng hồ ở công an phường sở tại. Khuôn mặt sưng húp vì đòn hội đồng của những người yêu công lý khi tận mắt chứng kiến một con nghiện trộm cắp. Khổ nỗi, khu vực đó đã mất trộm xe nhiều lần, họ rình rập nhiều lần mà chưa tóm được thủ phạm. Giờ vô tình tôi lạc vào đó, bị tóm rồi ăn đủ đòn căm phẫn dành cho kẻ phạm tội quả tang và cho cả những… tên đạo chích đốn mạt trước đó. Ăn hai cái bánh mỳ bé như lưỡi mèo, cùng với một chai nước suối không biết ai sản xuất, sản xuất từ bao giờ. Anh công an hỏi địa chỉ gia đình để liên hệ xử lý, tôi không dám cho địa chỉ ở quê Hà Nam mà phải gọi điện về cho chị gái ở Hà Nội để thông báo “tin dữ”. Chị gái tôi đến muộn vì bận công việc ở xa. Thế là người ta đẩy tôi lên một chiếc xe ba bánh, với hai người mặc quân phục cảnh sát canh giữ. Tôi đã phạm tội quả tang. Rời công an phường Phạm Đình Hổ với nước mắt rưng rưng của một người phạm lỗi, tôi ngoái lại thì thấy chị mình vừa tới nơi, chị cũng không kịp mang giấy tờ gì. Chị hớt hải đứng khóc, bốn mắt nhìn nhau… bất lực. Đó là những khoảnh khắc chắc chắn sẽ theo tôi đến suốt cuộc đời. Rồi người ta đưa tôi lên phòng giam của Công an quận Hai Bà Trưng, những tháng ngày trong phòng giam thiếu thuốc phiện,không có heroin (dĩ nhiên!), tôi đã vật vã như người sắp chết. Không ăn, không uống gì được. Được ba bốn hôm, cơ thể tôi dần tỉnh lại, tôi hiểu thế là cuộc đời mình coi như đã hết, thương mẹ, thương chị vô cùng, chợt một ý nghĩ vụt đến là chỉ có chết. Người ta bình đẳng trước tình yêu và cái chết. Cái chết sẽ xóa đi tất cả. Mọi người chỉ đau một lần, rồi có thể sẽ không ai phải khổ sở vì tôi như cái cảnh mình nghiện hút, bị giam vì ăn cắp thế này nữa! Tôi ủ mưu kỹ, rồi quyết định tự tử bằng cách xé quần áo, bện nhỏ lại thành dây thừng vải, rồi buộc vào song sắt của lỗ thông gió, tôi đu người lên, sợi dây vừa xiết vào cổ một lúc. Thì bỗng “Phịch!”, dây thắt cổ bị đứt, quần áo tôi mặc đã cũ mủn rồi mà. “Thi thể” tôi rơi xuống đất, đồng chí công an canh gác nghe tiếng động chạy vào nhìn thấy tôi nằm sõng xoài trên nền nhà giam lạnh lẽo. Người ta lôi tôi ra ngoài, rồi người ta lại tống tôi trở lại phòng giam. Khắp người đau ê ẩm, hai bắp chân sưng húp. Tôi nằm thiêm thiếp, cay đắng nghĩ, nghiện không được hút hít, muốn chết không được chết, đời còn nỗi đau nào hơn thế không? Và tôi khóc rúc lên từng hồi, tôi úp mặt xuống nền xi măng mà khóc.
Được hơn mười hôm với hai lần kí lệnh tạm giữ, thì anh rể và cậu Bằng - em mẹ tôi - vào bảo lãnh cho tôi ra khỏi nhà tạm giam, có lẽ vì họ nghĩ rằng tôi có thể thay đổi, sẽ biết thương mình, thương mẹ cha hơn, sẽ có thể “cải tà quy chính” để quay về nẻo thiện, đi lên… làm người. Nhưng sự đời không đơn giản như vậy, ra khỏi nhà giam với một trăm nghìn tiền lưu ký hôm vào tôi gửi, anh rể và cậu bận công tác không đi đón được, tôi lại lao ngay vào chỗ bán heroin. Sao heroin lại được mua bán dễ dàng thế, để đời tôi cứ thoắt cái lại đổ đốn với nó như thế nhỉ? Ngay cả khi đi tìm heroin ở xóm liều, ngay cả khi đang phê thuốc và những giọt nước mắt ân hận đến hẹn lại lên sau đó, tôi đều oán trách một cái cộng đồng mà mua thuốc phiện, mua heroin không quá khó khăn kiểu đó. Với một trăm ngàn để đổi lấy một liều ma túy trong tay, kèm theo một ngàn không trăm… lẻ một cách quay tiền của gia đình và xã hội, tôi đã quay trở lại với Con Ma Đáng Sợ Nhất sau mười lăm hôm nằm trong nhà giam “cách biệt với thế giới tội lỗi”. Nguyên vẹn một kẻ gầy héo, môi thâm mắt trắng, tâm hồn bị quỷ ám mỗi khi lên cơn vật… lại tái xuất giang hồ. Đã nghiện lại lần thứ bao nhiêu tôi cũng không nhớ nữa.
Có lúc ngồi dặt dẹo, đói thuốc nơi xó chợ gầm cầu, nhớ hồi đèn sách thơ ngây, tôi đã đọc ở đâu đó một câu nói dí dỏm của một bậc trí thức phương Tây nghiện thuốc lá. Rằng “bỏ thuốc là điều rất dễ, bạn có tin không. Riêng tôi rất tin điều đó, bởi tôi đã… bỏ thuốc lá nhiều lần!” Tôi cũng vậy, tôi đã cai ma túy, đã hối lỗi, đã tự xích mình rồi vứt chìa khóa xuống ao nhiều lần. Cay đắng quá. Sự cay đắng đó, dường như là chút lương tâm còn sót lại trong gã nghiện ngập đáng sợ là tôi hồi đó.
“Đầu đường xó chợ” rồi, chả còn gì để mất. Muốn nhanh có tiền để hút hít thì chỉ có nước đi ăn cướp, rồi lại đâm thuê chém mướn.
Tôi không hiểu sao, bố mẹ tử tế, tôi từng tử tế ngần ấy, mà có lúc về Hà Nội tôi đã “đại bàng, đầu gấu” “dọc ngang nào biết trên đầu có ai” đến mức này. Để có tiền, tôi cùng với ba thằng đệ tử là những đứa nghiện nặng, chúng tôi lao vào cướp sới bạc với những nhát dao chí mạng cho những ai muốn chống cự. Đám đầu bò đầu bướu tưởng chả sợ ai bao giờ, nay thấy những con thiêu thân coi mạng sống tựa “lông hồng” nhảy vào đâm chém, tránh voi chẳng xấu mặt nào, chúng nó tá hỏa chạy. Vơ vội vàng được lưng túi tiền sột soạt. Sướng tỉnh người! Chúng tôi bảo nhau phi lên xe “ba mươi sáu chước, chước chuồn là hơn”. Rồi với số tiền đó chia năm xẻ bảy cũng chẳng trụ lại được bao nhiêu với sức thiêu đốt của ngọn lửa “châm” heroin thành khói. Độ hơn mười hôm “ăn chơi tè phè” sau đó, chúng tôi lại ngựa quen đường cũ, tiếp tục đi “săn hàng” về cùng thác loạn. Nghĩ đến cảm giác “lên mây” với thứ độc dược đó, đầu tôi như có đám mây độc địa trôi qua, bao nhục nhã, bao tàn ác, bao ân hận trở thành bé tí. Tôi làm mọi thứ để có thể đạt được cảm giác với ma túy. Dù, như đã nói, lên mây xong, một phút sau tôi muốn đi tự tử, tôi đã nhiều lần tự tử, vì ân hận, vì thương xót cho mình lầm lạc tuổi xuân. Thế nên ai đó mới bảo, bao nhiêu thứ vô lý nhất trên đời này, gộp thêm bao nhiêu thứ có lý nhất trên đời này, đều có thể thấy trọn vẹn ở ma túy.
Trong cái lần đi làm kẻ cướp theo đúng nghĩa đen ấy. Tôi đã bị một ánh mắt ngây thơ làm cho tỉnh ngộ. Đôi mắt trong veo của cô bé đang sợ tôi như con nai sợ con cọp thành tinh kinh tởm nhất. Ơ hay, vậy mà nó làm tôi suy sụp hoàn toàn, tôi như lột xác. Tôi như muốn quăng bỏ đời mình xuống dòng sông nào đó, muốn chết ngay đi với những tàn độc trời không dung đất không tha của mình.
Hôm đó, tôi lững thững đi trong cơn thèm heroin. Mắt đảo như rang lạc, tôi tìm cơ hội để trộm, tìm đối tượng để cướp của. Bỗng đến trước ngôi trường có tên đại ý là trường Trung học cơ sở Tô Hoàng ở Hà Nội. Tôi nhớ mãi, trường đó có một cái mương nước lượn từ rìa trường sang phía sau, nó nằm ở gần chỗ nối giữa đường phố Huế và phố Bà Triệu ở khu vực hai con phố cùng giao cắt với phố Đại Cồ Việt của Hà Nội. Các cháu học sinh tiểu học ra về, có cháu được bố mẹ vào tận trường dắt ra xe, có cháu tung tăng váy áo dọc vỉa hè chờ bố mẹ. Mắt tôi bỗng sáng lên, khi nhìn thấy một đứa bé tầm chín, mười tuổi đầu đang mỉm cười ngước đôi mắt trong veo lên nhìn bầu trời phía sau những tán bằng lăng tuyệt đẹp. Nó nhìn lên, còn tôi thì ngóng xuống, bởi tôi là kẻ đang tìm đồ để… ăn cướp. Cháu mặc áo phông, tóc buộc đuôi gà ngăn ngắn lắc lư theo từng nhịp chân đi dạo. Tôi phát hiện thấy cháu gái này có đeo đây chuyền vàng tây nho nhỏ sáng loáng. Cháu đứng cạnh một cái xe đạp nini Nhật, ra chừng khó dắt trộm xe mà chạy tháo thân giữa phố, tôi quyết định thủ dao Thái Lan để cướp dây chuyền vàng của cháu bé.
Tôi bắt chuyện với cháu, nó hồn nhiên chào tôi rồi nói chuyện như đang nói với cha mẹ mình. Tôi dụ nó ra đằng sau trường, một cánh tay hộ pháp của tôi cũng đủ để giữ chặt hai cánh tay mềm oặt trắng nõn của nó. Với lời lẽ đầy hăm dọa, mắt tôi long sòng sọc, tiếng tôi rít qua hai hàm răng bành ra chắc là gớm ghiếc lắm, tôi bảo: Im lặng, không thì tao giết chết. Tay tôi lăm lăm con dao Thái Lan nhọn hoắt, to bản, sáng loáng. Tôi dí dao vào mặt cháu bé, giọng tôi vẫn rít lên “im ngay, tao giết!”. Tay kia định thò ra giật chiếc dây chuyền của nó. Chắc cháu bé không biết dây chuyền bằng vàng, càng không biết vàng đắt hơn, quý hơn hay cục tẩy, cái bút chì, cái nơ buộc tóc màu tím trên đầu cháu đắt hơn, quý hơn! Đơn giản là cháu quá hãi hùng. Cái chú vừa ngọt ngào trò chuyện, dụ cháu ra sau trường đầy thương yêu như thế, bây giờ chú ấy nhe răng, trợn mắt, bóp cánh tay cháu đau quá. Sự thất vọng kinh hoàng nằm sâu hun hút trong ánh mắt, trong gương mặt, trong sự sợ hãi của cháu bé. Nó nhìn tôi, không kêu ca được, không van xin được, nó sợ quá, nó cứ lịm đi. Ánh mắt nó là một cái gì rất ám ảnh nhưng tôi không thể nào miêu tả được, có lẽ nó giống ánh mắt tuyệt vọng của một hoang thú trước khi bị giết chết. Tôi rùng mình, nó cũng cũng như con của chị gái tôi, đứa cháu mà tôi đã thương yêu như con gái nhỏ của mình. Từ lúc cháu sinh ra, tôi luôn nghĩ, các vị thiên thần đã mượn thân xác cháu để trú ẩn và dâng cho đời các cảm xúc tuyệt vời nhất. Tại sao tôi lại xử ác với thiên thần bé ở ngôi trường tuyệt đẹp giữa lòng Thủ đô này? Tôi nhìn lại, vẫn ánh mắt cháu bé nhìn tôi như van xin. Nó vùng vẫy, như con thú đã mắc bẫy độc, như con thỏ đứng trước nanh vuốt của mãnh hổ. Không biết bằng sự xui khiến nào, tôi đã chùng tay lại. Tôi buông nó ra rồi vứt con dao vào gốc cây cổ thụ được trang trí đầy cỏ hoa lúp xúp và tôi gục xuống nước mắt giàn giụa. Cháu bé chạy vù đi. Đi rất xa nó còn ngoái lại, chốc chốc nó lại ngã khuỵu. Còn tôi thì vẫn quỳ như thế, như thể quỳ lạy xin thiên thần bé váy trắng đeo vòng vàng ấy tha thứ. Tôi quỳ mãi cho đến khi mồ hôi vã ra như tắm. Nếu chưa vứt bỏ con dao, có lẽ nỗi nhục nhã ấy đã đủ để tôi… tự đâm chết mình.
Khi viết những dòng này, tôi đã khóc, khóc vì thương ánh mắt của cháu bé hôm đó, thương sự đốn mạt do ma túy chỉ lối đưa đường của tôi hôm đó. Có lẽ, suốt cuộc đời này, bé gái ở trường THCS Tô Hoàng đó không quên được gã mặt tái xanh bê tha tay cầm dao chọc tiết lợn miệng rít lên man rợ hôm đó. Theo ước tính của tôi, năm nay, em gái đó khoảng 26-27 tuổi. Tôi tha thiết muốn gặp lại em. Có thể bố mẹ gia đình em cũng biết cái ngày khủng khiếp đó. Em thì dĩ nhiên suốt đời không thể nào quên cái góc tuổi thơ bị đe dọa kinh hoàng hôm đó. Làm sao tôi gặp lại em, để ký tặng em một cuốn sách “Nẻo Về”, cuốn sách ấy sẽ được đặt trang trọng bên bàn làm việc của em. Để nói với em một lời xin lỗi muộn màng, rằng cuộc đời đã có người đi từ đáy vực hư đốn để đến chỗ hoàn lương được như tôi hôm nay. Mong em đừng mất niềm tin vào Cuộc Đời, em nhé. Xin em hãy hiểu và tha thứ cho tôi, rằng hôm đó tôi đã không cướp, không dùng dao nhọn đâm em, tôi đã ném dao đi, tôi đã quỳ lạy dưới chân em rồi khóc. Đó là “tình tiết giảm nhẹ” cho tội lỗi của tôi, em nhé.
Sám hối được tí chút thôi. Như kẻ giả vờ ấy. Rồi cơn vật thuốc lại thêm một lần kéo đến. Thiên thần bé khiến tôi quỳ lạy được một chốc, tôi tẩy rửa thể xác và tâm hồn mình chỉ một chốc một lát thế thôi. Những chiếc xi lanh đỏ máu con nghiện lại cuốn tôi đi một cách đốn mạt nhất.
Tôi bèn nghĩ ra trò mới khi trong túi đã hết nhẵn tiền. Tôi gọi điện về cho chị gái. Bảo rằng tôi đi đánh bạc bị thua nhẵn túi, rồi nợ tiền bị chúng nó bắt với cái thớt nghiến to và bàn tay bên phải kê trên lưỡi dao dài. Chúng nó bắt tôi gọi điện về cho gia đình bảo mang tiền đến chuộc thì chúng nó mới cho lành lặn về. Tôi bảo, hay là chị đừng cứu em nữa, cứ để cho em bỏ lại một cánh tay trên cái thớt nghiến này, có khi em lại cai được ma túy, cai được cờ bạc, chị đỡ khổ mà em thì đỡ nhục. Tôi biết, nói đến đấy chị tôi đã khóc. Hớt ha hớt hải chị gọi điện cho anh rể. Tôi chưa bao giờ dám nghĩ đời mình lại có được ông anh rể cam chịu, tử tế, và chí tình chí nghĩa đến như vậy. Đến bây giờ, tôi cũng không hiểu, bằng cách nào anh có thể chịu đựng được tôi, suốt bao năm đi bên tôi cần mẫn và hữu tình đến vậy. Tôi dám chắc, tôi không bao giờ tử tế được với em vợ của tôi đến thế.
Hôm đó, hai anh chị công chức nghèo phải đi vay nóng tiền của người ta, cầm tiền rồi, chị tôi vẫn khóc nức nở, anh phi xe máy vèo vèo xuống phía chợ Mơ, vừa đi vừa hào hển, nhanh lên không có thì bọn mất dạy nó chặt mất tay của cậu Tuấn. Giàu đôi con mắt, khó đôi bàn tay. Cậu ấy tàn phế thì bố mẹ chết mất, có mỗi cậu quý tử. “Nó cần máu của em, em cũng rút hết đem cho nó được, anh ạ”, sau này, anh rể đã tiết lộ lời nói gan ruột của chị gái tôi hôm đó. Đến khu Chợ Mơ “giải cứu” cậu Tuấn, chị gái gọi điện cho tôi. Tôi làm mặt đau khổ sợ sệt ra cầm tiền. Cùng đi với tôi là một thằng bạn nghiện, nó ăn mặc nói năng lỗ mãng, bặm trợn, ý rằng nó áp giải tôi ra lấy tiền chuộc, sai hẹn thì sẽ kéo “con mồi” vào chặt một bên bàn tay! Tôi an ủi chị, chị đừng lo, em sẽ an toàn, tối em sẽ về. Và thế là có tiền.
Tôi đi một mạch hơn 10 ngày sau mới về qua nhàchị để… thay quần áo. Chị, cũng như mẹ, vẫn thường nói, ở gần tôi lắm, ngửi quần áo sặc mùi ma túy, không khéo thì chị nghiện mất em ơi. Nói rồi chị lén quay đi, chị khóc nhiều quá, giờ mà lại khóc trước mặt “cậu Tuấn” thì sợ tôi buồn, tôi lại đi cho một tháng nữa mới về thay quần áo.
Thấy tôi nghiện nặng, lại liều lĩnh có hạng. Đám giang hồ đã “túc trí đa mưu” sử dụng cái “điên cuồng hồng vệ binh” của tôi vào đủ các thứ nghề khốn nạn. Chúng trả công khá hậu hĩnh. Thì đổi cả mạng sống, sẵn sàng đối mặt với cái án bóc lịch trong tù đến bạc đầu để làm cái nghề đó, thì “lương” không cao mới là lạ. Tôi biết vậy, nên ăn chơi tràn cung mây. Bao nhiêu tiền kiếm được, có ngày vài triệu đồng, tôi phá hết. Càng có tiền, tôi càng như con bạc khát nước, càng nghiện nặng hơn. Các cơn trầm uất, hoang tưởng, rồi các phi vụ liều lĩnh “không sợ trời đất gì nữa” đến với tôi ngày càng nhiều. Củ mài ăn xuống, ma túy ăn lên, tội ác cũng ăn lên nốt. Tôi hiểu rõ điều đó, chỉ có điều, tôi đã ứng xử với những cái hiểu đó bằng cách tặc lưỡi cho qua!
Cứ trượt sâu trong vòng xoáy thuốc - tiền - bán linh hồn cho ma túy, rồi nghe theo đám bạn nghiện coi đời bằng vung, chúng tôi đã rủ nhau tổ chức vượt biên trái phép. Với hai khẩu súng và một ít tiền vàng có được từ các vụ vận chuyển vũ khí thuê, chúng tôi đã “lên đường”. Một vài nữ quái Hà thành, vài đứa bất hảo ở Hải Phòng, chúng tôi gom tiền vàng vào rồi “thuê” đám giang hồ khác tổ chức lên tàu vượt biển. Không ai biết rõ về nhân thân của nhau, chỉ biết bên cạnh mình đều là đầu bò đầu bướu, giang hồ có số có má cả. Tàu chuẩn bị xuất bến, thì thấy bốn phía đèn sáng rực. Tiếng hô bằng loa “tất cả đứng im” dõng dạc. Tôi hiểu, lực lượng hải quân, lực lượng bộ đội biên phòng và công an đã phát hiện “âm mưu động trời” và bủa vây tứ phía. Kẻ cắp gặp bà già, hình như có đứa trong đoàn đã báo cho lực lượng chức năng. Tất cả bỏ chạy tán loạn, đồ đạc, tiền vàng, súng ống vứt khắp nơi. Tôi còn kịp nghĩ, hai tay hai súng thế này mà bị tóm thì tù mọt gông. Tôi ném hai khẩu súng ngắn xuống biển để phi tang. Rồi chạy như ma đuổi. Tôi chỉ nhớ là bằng bản năng sinh tồn trời sinh của mình, bằng năng lực nào đó của một kẻ nghiện đầu đường xó chợ từng sống sót đằng đẵng, tôi đã băng qua những đỉnh đá tai mèo, băng qua các bãi cát lầy thụt trong đêm giữa tiếng súng nổ chiu chíu, chát chúa rồi tiếng kêu cứu thảm thiết. Khi viết những dòng này, cảm giác sợ hãi lúc đó dường như vẫn nóng hổi với tiếng súng nổ bên tai, với mồ hôi vã ra như tắm. Tôi đã chạy mất cả giày dép, đôi bàn chân tứa máu. Tiền và vàng ki cóp được sau thời gian đánh cược mạng sống của mình bằng cách đi vận chuyển vũ khí thuê giờ đã biến mất hết cả. Tôi vật vã đau đớn. Đứa bạn giang hồ vừa đốt heroin trên tấm giấy bạc của phong kẹo cao su, vừa thở dài: “Của thiên trả địa. Của đi thay người”. Tôi thì vừa tự băng bó đôi bàn chân ròng ròng máu tươi, vừa than vãn. Sau này, khi vụ việc ầm ĩ được nhiều người biết tới, nghe tin đồn về “hậu vượt biên” hôm vỡ trận đó, thằng bạn còn phân tích: “Khối đứa bị bắt, bóc lịch trong nhà giam. Có đứa bị đạn lạc làm cho gục ngã bên bờ biển, nằm đến sáng hôm sau ngư dân mới tình cờ cứu được, mày muốn như chúng nó hay là thoát thân trắng tay như bọn mình?”
Đến lúc đó tôi mới bớt đau khổ vì cuộc vượt biên bất thành kia. Và tôi chỉ nghĩ đơn giản, cái loại nghiện ngập như mình, của nả nào không bay thành khói thuốc. Tiền vàng kia không bị cướp, bị rơi trong loang loáng ánh đèn pin, vang rền súng nổ từ kẻ chạy trốn và lực lượng truy bắt, thì nó cũng… dành để đốt trong ma túy. Đằng nào hơn? Tôi không mê lú như người ta tưởng, tôi vẫn tỉnh táo xen lẫn những cơn phê và những lúc điên cuồng xoay tiền bằng mọi cách, tìm kiếm thuốc phiện và heroin bằng mọi giá. Tôi đủ tỉnh táo để biết rất rõ: ma túy đã ăn ruỗng cơ thể và tâm hồn tôi. Tôi nhiều lúc giống như một thứ quỷ dữ. Biết như vậy. Trăn trở lắm. Nhưng biết và trăn trở để… đôi lúc ngồi khóc bên xóm bụi lạc loài thôi.
Thời gian trôi đi với những ngày những đêm chìm lút trong ma túy, dường như nỗi ám ảnh cái buổi tối vứt bỏ cặp tiền, vàng và đô la, súng ống, “chạy loạn” khỏi con tàu vượt biên ở bờ biển Hải Phòng đã mờ xa rồi; thì bỗng dưng lại có đứa bảo “vượt biên”. “Bên kia không mua ma túy dễ như ở ta, biết đâu những con nghiện có nhân cách như bọn mình sẽ cai được hẳn, ông ạ. Chứ nghiện lại cai, cai lại nghiện quẩn quanh thế này thì mình sống đúng là không bằng con vật, ông ạ!”. Tôi giật mình nhận ra, đã bao lần tôi cai được ma túy, tôi, gia đình và bè bạn đã tột cùng vui sướng. Cái vũng lầm kinh tởm kia, ta chào mi. Có lần tôi đã thầm nghĩ đầy kiêu hãnh như vậy. Thế nhưng, thoáng cái là tôi lại gặp mấy đứa nghiện bạn bè hoặc chưa một lần quen biết; nhưng gương mặt nó, mùi hôi, sự mời gọi ma mị của nó như có “ma dẫn lối quỷ đưa đường”, nó khiến tôi nhớ heroin đến quay quắt. Trong phút chốc, “kiếm củi ba năm đốt trong một giờ”, công quả “tu luyện cai nghiện” bấy lâu tan thành mây khói. Vì sao? Vì nhiều lý do. Nhưng chủ yếu vẫn là vì nguyên nhân: ở những nơi tôi đã sống mấy chục năm qua, mua thuốc phiện, heroin, hồng phiến, bạch phiến dễ quá. Ở quê Hà Nam, ở trường học, ở Hà Nội, ở Yên Bái hay bất cứ đâu, tôi đều dễ dàng mua ngay được ma túy để tái nghiện thêm một lần nữa. Tôi căm thù những kẻ buôn bán, vận chuyển ma túy đến tận xương tủy. Và, lời đề nghị vượt biên của gã nghiện oặt kia bỗng dưng làm tôi thấy… có lý. Thế là chúng tôi lên đường với mong muốn vượt Thái Bình Dương đến một “vùng đất hứa” nào đó mà chính tôi cũng không biết nó ra sao, ở đâu…
Không hiểu sao, cứ tự dưng, hai tiếng “vượt biên” lại vang lên trong cơn say thuốc điên cuồng. Lúc thác loạn trong chỗ đàng điếm mà lũ thuê tôi vận chuyển vũ khí dẫn đến, tôi đã không sợ gì trên đời nữa. Tôi nghĩ, đời lại xui mình ra đi cho thỏa chí tang bồng. Lần ấy, tôi và một thằng bạn nghiện rủ nhau đi cùng. Hai đứa mang theo chiếc xe máy và ít tiền “dơ bẩn” có được do buôn bán và vận chuyển vũ khí thuê. Chúng tôi đi dọc quốc lộ 1, qua Hà Tĩnh, vượt Đèo Ngang giữa “cỏ cây chen đá lá chen hoa” vào tít trong Quảng Bình. Qua một con đèo tuyệt đẹp nữa ở địa phận huyện Ba Đồn gần chân đèo Lý Hòa thì phải. Còn ít tiền để dành với giấc mộng điên rồ mang tên “vượt biên”, hai thằng nghiện quyết định đổ xăng miễn phí ven quốc lộ. Với máu côn đồ sẵn có, cộng với bản chất bất cần, chúng tôi rẽ vào cây xăng bên đường hô ông chủ “cho đầy bình xăng” rồi vểnh râu nhìn số tiền chạy mãi chạy mãi bên đồng hồ máy bán xăng. Trịnh trọng cảm ơn, điềm đạm đóng nắp bình xăng. Lúc ông chủ quay ra đổ xăng cho vị khách khác, thằng bạn tôi giả vờ tìm tiền… lẻ. Rồi tôi nổ máy, nó lao lên, cả hai vù đi. Đổ xăng không thèm trả tiền, đổ xăng xong bỏ chạy. Chúng tôi cứ thế luồn lách đánh võng, lao đi rất nhanh trong cơn vật vã thèm thuốc dọc con đường thiên lý ở vùng đất mình chưa từng đặt chân đến...
Nhưng không ngờ nhà của ông chủ cây xăng cũng gần đấy, nên ông ta lập tức bỏ lại cơ nghiệp, lao lên chiếc xe máy hiện đại, quyết liệt đuổi theo hai vị khách đểu cáng mà cả đời kinh doanh ông chưa bao giờ gặp phải trường hợp tương tự. Ông ta còn gọi cho người nhà cách đó ba cây số đón lõng, chặn đường “Nam tiến” của chúng tôi. Bị bắt trong ê chề. Bị một trận đòn hội đồng tơi tả. Đòn hội đồng vốn rất ác, nhẹ thì về uống nước lá tre phục bệnh, nặng thì chết nhừ vì dập nát toàn thân. Chẳng biết ai đánh mình, chỉ biết tối mặt tối mũi trong nỗi căm thù cái ác được nhân lên sau mỗi lượt mưa đòn, sau mỗi lúc số người đến “đánh hôi” càng đông thì đòn thù càng đau đớn hơn. Không ai khuyến khích đòn hội đồng, nhưng quả thực, những lần bị đánh do ăn cắp xe đạp, bị đánh do đổ xăng bỏ chạy đã giúp tôi tỉnh ngộ phần nào vì nỗi sợ đòn hội đồng. Đánh xong, thấy chúng tôi đau đớn, lại nhìn tôi khóc lóc vì nhục nhã ê chề. Anh chủ cây xăng dường như đã thấy chút lương tâm của một người vốn tử tế trong tôi. Anh biết tôi nhục nhã lắm. Anh đưa tôi về nhà, cho ăn uống, cho quần áo mặc, rồi bảo: “Chú không phải là đứa ít học, gương mặt chú rất có hậu, sáng sủa. Anh không cần chú phải nói gì. Nhưng anh biết chú có thể bỏ thuốc phiện, heroin và làm lại cuộc đời được. Nếu anh kể ra, thì chú cũng sẽ bất ngờ đấy. Anh đã từng mất tất cả, từng thấy đời mình như bụi rậm ở phía trước, nhưng rồi anh đã lấy lại được, đã có một cơ ngơi với vợ hiền, đàn con hiếu thảo như hôm nay. Chú đi đi, đi đi mà tìm lại cái mà chú đã vô tình đánh mất. Anh biết chú sẽ tìm được”.
Chất giọng Quảng Bình nặng nặng ấy, trong buổi chiều vừa thấm đòn hội đồng căm phẫn cái xấu cái ác ấy, tôi đã xúc động đến từng xăng ti mét trong con người mình. Tôi đã khóc rất nhiều, trong khi thằng bạn nghiện của tôi nằm ngủ vô tư trên giường nhà ông chủ cây xăng, tiếng nó ngáy vang một góc nhà. Tôi bảo, đời em không ngờ lại đến nước này…
Từ ngày bước chân vào lầm lạc, tôi chưa từng gặp một người nào nói về giang hồ rẽ lối, về hư đốn đời mình mà hào sảng như anh chủ cây xăng bữa ấy. Anh bảo, “tau” (tao) chả dại gì chứa hai thằng nghiện trong nhà mình như “bữa ni” (buổi hôm nay). Nhất là hai thằng ấy lại vừa cướp xăng của “tau”. Nhưng nếu anh ấy không từng giang hồ, thì làm sao dám đuổi theo quật ngã hai đứa côn đồ? Hãy cố lên em. Con người ta “tính bản thiện”, anh biết em là người tốt. Ở đời có phúc thì khắc có phần. Anh tin là em sẽ làm lại được tất cả, có được tất cả. Khôn nó dồn ra mặt. Anh nhìn em là anh biết. Anh cho em thêm ít tiền mà đi tìm vợ, nhớ là đừng ăn quán rồi bỏ chạy, đừng đổ xăng rồi nổ máy“bái bai” nhé. Giọng anh cười hào sảng, anh vỗ vai tôi. Nghiện ma túy thì cũng vẫn là con người, như tivi nói, họ là những bệnh nhân đặc biệt. Anh không khinh ghét bọn đâu. Cớ gì mà em đến anh phải cất điều khiển tivi kẻo sợ mất nhỉ? Trước khi rồ ga đi trong giàn giụa nước mắt, tôi vẫn kịp quay lại hỏi anh chủ cây xăng: “Sao anh biết hàng xóm cứ thấy em đến là họ bảo con cất điều khiển tivi nhỉ?”. Anh chủ cây xăng vẫn vỗ vai tôi hào sảng, anh biết chứ. Tôi thoáng nghĩ, gớm, lão này từng trải, hiểu đời cứ như yêu tinh. Từ đó đến nay, đã hơn chục năm trôi qua, nghĩ đến quá khứ dằng dặc đau thương ấy, tôi cứ có cảm giác gì đó như là thần tượng cái con người hào sảng hôm đó.
Tiếp tục lên đường sau sự kiện dưới chân đèo với ông chủ cây xăng kỳ lạ. Chúng tôi đã dừng lại ở một bãi biển khá hoang sơ. Hai tiếng “vượt biên” lại vang lên như có ma xui quỷ khiến. Giả vờ là những người khách đi du lịch, chúng tôi thuê thuyền và yêu cầu chủ thuyền cho chúng tôi đi câu mực trong đêm. Ông chủ thật thà đồng ý, sau khi đã ngã giá rất chi tiết mọi thứ. Thấy các vị khách hứa trả tiền hậu hĩ, lấy trước ít tiền ứng mua nhiên liệu, ngư dân già lập cập nổ máy vươn khơi. Khi tàu đã ra ngoài khơi, cách bờ vài hải lý, chúng tôi yêu cầu chủ tàu chạy thẳng ra hải phận quốc tế. Ông ta ngạc nhiên lắm, đang cằn nhằn phản ứng thì ông hãi hùng khi thấy nòng súng lạnh ngắt, tiếng lên đạn lách cách. Ông run lẩy bẩy, đừng đẩy tôi xuống biển. Cảm giác ghê rợn trong con người ông lão đánh cá đã truyền sang tôi, bất giác, các lỗ chân lông trên cơ thể tôi cùng ớn lạnh. Tôi ghê tởm con người mình. Vừa xúc động chia tay vị ân nhân là chủ cây xăng, giờ tôi đã móc khẩu súng này để dí vào gáy người đánh cá hiền lành này ư?
Tôi im lặng ngồi thừ ở mũi tàu. Thằng bạn tôi vẫn rú rít với những lời nói đầy hăm dọa:
- Ông có đi không thì bảo!
- Muốn đi hay là chết! Bọn này thích chết hơn thích sống, ông hiểu chưa?!
Chủ tàu líu ríu, lập cập bắt buộc phải làm theo chúng tôi, tàu chạy hơn một ngày ra tới phao số không. Bấy giờ, quay lại phía bờ biển quê nhà chỉ thấy bịt bùng sóng nước, nhìn ra phía bên kia Thái Bình Dương cũng miên man sương biển. Bốn phía không thấy một cái gì cả, trên là trời, dưới là nước, không chim bay không cá lượn. Ba con người cô độc. Ông chủ tàu vẫn run cầm cập, hai chúng tôi thì câm lặng tính kế ủ mưu. Đứng trước “cột mốc” cuối cùng, ranh giới cuối cùng trên biển của Tổ quốc, tôi thấy lòng mình lâng lâng, tôi hiểu chỉ cần bước qua ranh giới kia thôi thì mọi thứ sẽ khác. Bỗng lúc đó, bất chợt cảm giác bình yên trở về đến kỳ lạ. Một cảm giác tự hào khó tả. Trong cơn đói, trong cái khô khát thiếu nước ngọt giữa đại dương bao la sóng nước, tôi đã mơ màng nghĩ đến cái chết. Ông chủ tàu gầy gò ném tôi xuống biển là xong. Tôi nằm nhắm mắt thiếp đi, thằng bạn gớm ghiếc vẫn canh chừng. Bỗng dưng hình ảnh người cậu liệt sĩ vô vàn kính yêu của tôi hiện về. Cậu nhuộm máu mình và máu kẻ thù trong một cuộc chiến giáp lá cà. Cậu đã ra đi không đòi hỏi gì cho riêng mình. Cậu và nhiều người trẻ khác, nhiều thế hệ con người ưu tú nước Việt đã ngã xuống cho Tổ quốc bay lên với độc lập tự do hôm nay. Vậy mà chúng tôi đã làm gì, những con nghiện phụ lòng bao nhiêu người tốt để hôm nay lại dí súng vào lão ngư dân gầy gò kia hòng ép ông ấy đưa mình vượt biên trái phép. Cuộc sống ăn bơ thừa sữa cặn, chui rúc ly hương xứ người trong thân phận “người nhập cư trái phép” trong trại tị nạn có danh giá gì? Việc chết đói chết khát trên con tàu này, hoặc bị ném xác xuống đại dương, thì thử hỏi có ích gì, vẻ vang gì? Mình đã trả ơn những người nhuốm máu đào hy sinh vì Tổ quốc như cậu mình thế ư?
Chính tôi và cả hai người trên con tàu định mệnh ấy đều hết sức bất ngờ. Tôi quyết định ném khẩu súng xuống biển, đây là lần thứ hai tôi ném súng xuống biển! Tôi đã bò lại phía ông lái tàu nói lời xin lỗi ông. Chúng tôi ôm nhau khóc, ông xoa đầu tôi “con nín đi…”. Từ hôm đó, suốt hành trình và cả khi về đến nhà ông sau này, ông luôn xưng “cha”, gọi tôi là “con”, khiến đôi khi tôi rất xấu hổ.
Tàu quay trở lại. Trên đường về mọi thứ đều hết chỉ còn chút nước ngọt cuối cùng. Đói, đói đến vô cùng. Tôi chưa bao giờ đói như vậy, đói đến mê sảng. Tôi đã hiểu, cái chết đáng sợ nhất trên thế giới này, không phải là hành hình treo cổ, hay bắn xử tử bằng 5 chùm đạn súng AK với phát súng nhân đạo vào thái dương. Mà là chết đói. Tôi mỉm cười trong mê sảng. Rằng ai đó viết mà tôi đọc từ hồi còn ngồi trên ghế giảng đường, còn là lớp trưởng trong niềm ngưỡng mộ của bạn bè: sẽ không có chuyện cả đoàn người chết đói trong rừng hay trên con tàu giữa đại dương. Vì đơn giản là trong cơn đói kinh thiên họ sẽ ăn thịt nhau, còn hai người thì một trong hai kẻ sẽ ăn thịt nốt người bạn đồng hành của mình. Thành ra, về nguyên tắc, có có thể có một người chết đói trong rừng hay trên chuyến tàu lênh đênh vượt đại dương. Một câu chuyện hơi tếu hài về thảm cảnh kia, sao nó giống con tàu vượt biên như trong tiểu thuyết của chúng tôi hôm nay thế? Tôi bật cười bằng chút sức lực cuối cùng của mình.
Trong cơn mê sảng vì sắp chết đói, kèm theo chết khát. Trong cơn mơ, tôi nhìn thấy mẹ, mẹ đang ân cần bón cho tôi từng cốc sữa đút cho tôi từng thìa cháo khi tôi ốm đau. Rồi tôi thấy nhà đổ, người chết, tôi ngửi thấy cả mùi bom và thuốc súng, thấy cậu tôi đang lê lết trên chiến trường với vết thương đẫm máu đỏ lòe trên ngực. Trong mắt cậu, tôi lại thấy cả ánh mắt buồn rười rượi của cha. Chợt bừng tỉnh tôi mở mắt, vẫn thấy cái nắng chói chang của miền Trung nóng bỏng, da thì khô rát, đỏ lừ, đôi môi phồng rộp lên vì đói, vì khát. Chủ thuyền bảo tôi với cái giọng miền Trung nằng nặng:
“Cố gắng lên, con! Chỉ cần hai tiếng nữa là vào tới đất liền, nếu mọi việc không có… rủi ro!”. Nói rồi, ông ngước mắt lên nhìn bầu trời đen kịt, ông kiểm tra bình nhiên liệu không còn nhiều nhặn gì của con tàu tội nghiệp.
Tự nhiên tôi tỉnh ra, tôi nằm nhắm mắt bởi ánh nắng gay gắt chói chang rọi thẳng vào mặt. Nghĩ, sao mảnh đất nghèo này lại lắm con người hào sảng đến như vậy nhỉ? Rồi thuyền cũng cập bến, vào đến bến tôi xin lỗi ông chủ thuyền một lần nữa, cùng với lời cảm ơn và một lời hứa sẽ “hoàn lương” để làm người tử tế. Sau này nếu “làm được người” như chú nói, tôi sẽ quay lại cảm ơn chú. Dù rất mệt mỏi sau hành trình dài dường như định mệnh đó, chú vẫn nhẹ nhàng nói:
- Chú tin cháu sẽ làm được!
- Chú mong đợi ngày đó sẽ đến dù là bao lâu đi nữa!
Rồi ông chủ thuyền mời chúng tôi đi về cái quán gần nhà ông, ông bảo “chú chiêu đãi các con một bữa no nhé”. Rồi ông ngậm ngùi lau nước mắt hay lau mồ hôi hôi hột, tôi không tài nào phân biệt được. Mắt tôi hoa lên, hay là tôi đang khóc, tôi cũng không rõ nữa. Ông gọi một bát mỳ tôm. Chủ quán lấy một cục mì “ở truồng” (mỳ tôm bán theo cân, không có bao bì), thả mỳ tôm vào cái bát nhựa ọp ẹp mỏng dính, tống ít nước nguội ngắt từ cái phích cáu bẩn vào. Không cho thêm cái gì nữa. Phải nói, đó là cơn đói lịch sử và cũng là lần đầu tiên tôi ăn hết liền 5 cục mỳ tôm (tương đương 5 gói) cùng một lúc. Khi tiếng gào réo của cái dạ dày lắng xuống, chúng tôi xin phép lên đường về quê. Xe bấy giờ đã bị bán để lấy tiền đóng giả du khách giàu có thuê tàu đi câu mực. Chú đưa chúng tôi ra tận ngoài đường quốc lộ 1 bắt xe, với cử chỉ dịu dàng và những cái vỗ vai, giọng chú thủ thỉ nhưng thân mật.
- Cố gắng lên cháu nhé! Cố gắng mà quay trở lại làm người!
Xe đến, chúng tôi lên xe chào tạm biệt. Qua cơn đói, qua cái chết cận kề, tôi thấy bấy giờ lòng mình thơ thới lắm. Bao nhiêu kiến thức, cảm nhận về Quảng Bình cứ dồn về như… làm thơ, như đang làm một tiểu luận về Quảng Bình. Đây, nơi mà dáng hình Tổ quốc eo thắt nhất, từ biên giới Việt Lào, ra đến biển chỉ chừng năm chục cây số. Đây, mảnh đất Quảng Bình với mấy trăm năm chia cách đất nước của hai đời Trịnh - Nguyễn phân tranh, đất nước sao lại có cái thời tao loạn đến thế! Đây, tôi tạm biệt biển Nhật Lệ với bức tượng Mẹ Suốt lái đò ngang, đưa bộ đội qua sông đánh giặc. Tại Quảng Bình, tôi đã chết lâm sàng ngoài biển khơi, đã quẳng súng xuống đại dương, đã bị đánh hội đồng rồi bao điều cận kề sự sinh tử. Tạm biệt những con người miền biển hiền hòa, bao dung, chân thật như chú chủ thuyền, như anh chủ cây xăng. Với ánh mắt ngời sáng và tinh thần hào sảng, khí phách, họ đã tin tưởng gã nghiện dí súng vào đầu họ, đổ xăng quỵt tại cửa hàng nhà họ… Họ cứ một lòng tin vào cái ngày tôi hoàn lương mà không cần một lý do nào hết.
Tôi về đến nhà, cả nhà đã khóc ran ran. Họ cứ nghĩ tôi đã chết từ lâu rồi. Nhất là mẹ tôi, bà chỉ khóc thầm nhưng da diết lắm. Cá chuối đắm đuối vì con, càng lớn tôi mới càng hiểu được nỗi lòng người mẹ với đứa con mình dứt ruột sinh ra. Tôi ra đi bấy lâu, mẹ đã già đi rất nhiều. Bố thì không nói gì, nhưng tôi hiểu bố rất buồn. Dù hiểu, nhưng cay đắng thay, cái gì cần làm đối với một thằng nghiện thì vẫn cứ phải làm. Việc về đến nhà đầu tiên của một thằng nghiện trong tôi, là lại đi tìm ma túy. Với cái đói ma túy vật vã bấy lâu nay, tôi không còn muốn làm gì hết. Chỉ còn lại cái vòng luẩn quẩn của những cuộc chơi thâu đêm suốt sáng, lại những lần đi rình mò ăn trộm, ăn cắp. Mẹ tôi cùng gia đình anh chị em đã không nói được nữa, họ bất lực, họ tuyệt vọng, có người khóc, có người im lặng, nhưng ai cũng đau đớn tột cùng. Nhìn những hôm mẹ đi chợ về lòng buồn rười rượi, tôi chỉ muốn bỏ đi khỏi nhà cho đỡ đau đớn. Tôi cố gắng quyết tâm để làm lại cuộc đời nhưng không thể nào làm được, vì thứ ma lực chết người mang tên “ma túy” đó, nó tồn tại chiếm hữu trong tôi, nó dai dẳng, day dứt từng đêm từng ngày. Nó biến tôi từ một người thanh niên mang trong mình bao nhiêu đam mê, hoài bão và khát vọng đã trở thành một thứ nửa người, nửa ngợm, vật vờ đầu đường, xó chợ như “hồn ma bóng quế” hiện về. Người thanh niên khỏe mạnh hào hoa năm nào biến mất, chỉ còn lại một thân hình tiều tụy, quắt queo với ánh mắt trắng dã, đôi môi thâm xì. Phần người trong tôi đã không còn nữa, chỉ còn đúng hơn là một “con vật biết nói tiếng người và đi bằng hai chân với một cái đầu trống rỗng”.
Bố tôi sau nhiều đêm chua xót, suy nghĩ đến bạc nửa mái đầu, nụ cười vô tư của ông đã không còn nữa, nhường cho những nét đăm chiêu đau khổ. Càng đau đớn hơn, vì qua cả hai cuộc chiến mấy chục năm ròng, trước kẻ thù hung bạo nhất, mà ông đã không quản ngại hy sinh, đã kiêu hùng chiến đấu và chiến thắng. Thế mà giờ đây, trước đứa con thân yêu, ông đã bất lực. Bất lực với ma túy, với chính sự tha hóa đến tột cùng của đứa con trai duy nhất của mình. Rồi nén lòng lại, ông cùng gia đình động viên tôi đi cai nghiện ma túy. Mọi người đưa tôi vào một trung tâm cai nghiện tồi tàn nằm cách nhà gần một trăm cây số. Gọi là trung tâm cai nghiện cho… oai, chứ thực ra nó là một căn nhà ba tầng cũ kĩ và bé tí. Tôi có cảm giác nó không thể bé hơn được nữa, nhất là lúc tôi lên cơn, nhảy đỏng lên, cuồng loạn vì đói thuốc. Đón tôi là một ông bác sỹ già và hai ông bảo vệ lực lưỡng với khuôn mặt bặm trợn to như hai ông thiện ác gác cổng chùa:
- Cởi quần áo ra xem có mang ma túy vào không - ông bác sỹ già ra lệnh, giọng đầy cáu kỉnh.
- Bọn nghiện này là không thể tin tưởng được đâu, nó nói như rồng leo rồng cuốn, tin nó thì bán nhà đi mà ăn!
Rồi người ta mang tôi lên phòng, đúng hơn là người ta xách tôi đi như xách một con lợn vì lúc đó tôi chỉ khoảng bốn mươi cân sau thời gian hành xác, đốt đời mình vì chất gây nghiện ma quái nhất với các trò trác táng thác loạn nhất. Lên đến nơi, nhìn căn phòng “chữa trị cho bệnh nhân đặc biệt” của “trung tâm cai nghiện” sao mà nó thảm hại thế. Nó chỉ khoảng ba mét vuông với một chiếc giường bé tí. Đúng là, nằm ngửa thì chật, mà nằm nghiêng thì… không vừa. Họ đè tôi ra tiêm rồi cho tôi uống một thứ thuốc gì đó. Tôi ngủ ly bì, tôi vật vã điên cuồng, tôi đập phá và gào khóc, xương cốt mỏi nhức, nước mắt nước mũi tràn ra, được hơn ba ngày tôi thấy có vẻ đã tạm thời cắt cơn. Tôi đã ăn được nửa bát cháo và bắt đầu tỉnh táo trở lại. Không thể chịu được cảnh tù túng nơi này, tôi quyết tâm trốn khỏi “động quỷ” của ông bác sỹ cáu kỉnh. Tôi thề với bố mẹ, anh chị em là tôi đã cai được rồi, cho tôi về, kẻo ở “nhà tù” giữa lòng Hà Nội này thì tôi sẽ cắn lưỡi, sẽ nhảy lầu tự tử. Tất nhiên, không ai tin nổi vào cái bài “nghiện trình bày” của tôi. Họ vẫn ép tôi ở đó hành xác mà cai, vì họ muốn tốt cho tôi. Có người còn bảo, cái bọn nghiện bị bắt đi tù, ai người ta cho hút hít trong tù đâu, thế mà có đứa nào chết vì thèm thuốc quá đâu. Kệ xác nó. Hết cách, tôi bèn lừa ông anh rể hiền lành của mình “ra chơi, em có tí việc muốn tâm sự”. Rồi tôi nhân thế tá hỏa chạy ra đường “đào thoát” khỏi căn phòng nằm cũng khó mà ngồi cũng khó kia. Thật ra đây là trung tâm cai nghiện tự nguyện, mất tiền, ai không thích thì cứ bỏ về. Tiền đã đóng từ trước cho vị bác sỹ già nắm đằng chuôi rồi.
Về đến nhà rồi tôi liền trốn đi mua ma túy ngay lập tức. Tôi đã càng dấn sâu vào vực thẳm khôn cùng của tội lỗi, càng ngày càng trượt sâu vào con đường không có lối thoát ấy. Đó là một con đường tăm tối tuyệt vọng nhất, nó tăm tối và tuyệt vọng hơn mọi sự tăm tối tuyệt vọng khác mà tôi có thể hình dung được. Vậy là, địa ngục ma túy của tôi đã quay trở lại nguyên vẹn hình hài. Tất cả nỗ lực của tôi, của gia đình và người thân quý tôi bấy lâu nay, giờ lại một lần nữa biến thành con số không tròn trĩnh.
Tôi vẫn luôn nghĩ, “đánh đĩ chín phương phải để một phương kiếm chồng” nên không bao giờ tôi ăn cắp gần nhà, tôi toàn đi ăn cắp xa, tôi la liếm “nhặt” bất cứ cái gì có thể thó được. Tiến tới lũ nghiện rủ tôi đi bảo kê bọn đánh đỏ đen trên xe khách đường dài. Chúng nó phục kích ở khu vực Đông Anh, Hà Nội. Chỗ ấy, xe Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên và nhiều tuyến khác đều qua, những người bà con vùng cao rất hiền lành, cả tin, dễ bị dụ dỗ. Chúng có một nhóm, cứ chặn xe khách lại xin đi nhờ. Nhà xe buộc phải cho đi, nếu không muốn đinh cắm thủng lốp, đá ném vỡ kính. Lên xe, chúng có sẵn cò mồi. Một đứa ngả bài ra chơi đỏ đen giải trí lúc xe đi chậm chạp lâu la, chờ đón trả khách. Một đứa nhảy vào chơi, thắng liền tù tì mấy ván, tiền tươi thóc thật đút vào túi hẳn hoi. Bà con thấy ngon lắm, nhưng vẫn rụt rè, bỗng có đứa gạ một cô một bác chơi cùng. Chơi xong, cả hai cô bác ấy cùng hí hửng chiến thắng, đút tiền vào túi trước bàn dân thiên hạ (thật ra những người “lĩnh tiền” ấy cũng đều là cò mồi, là đồng bọn của chúng cài vào hết). Thế là “thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào”, khối kẻ xin chơi. Chơi lúc đầu thì thắng lẻ tẻ, sau thua một phát hết tất số tiền vừa thắng. Thua keo này ta bày keo khác, dốc nốt tiền ra, rút đồng hồ, giấy tờ tùy thân ra đòi… gỡ gạc. Có người nổi máu cờ bạc, máu cay cú đến mức bảo nhà xe đỗ đó, về nhà lấy thêm tiền ra… gỡ gạc. Bọn đỏ đen nhanh tay lắm. Chúng có ba quân bài đen đỏ. Lúc chúng ngửa bài thì có hai quân đỏ, một quân đen, cũng trông tỏ. Chúng nó úp cả 3 quân bài xuống. Hầu hết người chơi chọn phương án: lật được quân đỏ lên thì thắng, vì tỷ lệ đỏ - đen là 2 đỏ/1 đen. Tuy nhiên, trong tay áo của bọn lừa đảo bao giờ cũng có các quân bài màu đen giấu sẵn. Lúc chúng ngửa bài lên thì hai đỏ một đen, chúng thò tay úp bài xuống cho hành khách chọn, thì các quân bài trong tay áo tuôn ra, cả ba quân đang nằm úp trở nên… đều đen hết. Bà con chọn kiểu gì cũng thua. Có người thua mất cả áo khoác, cả ví tiền. Cả con chó con mèo mang theo trên xe cũng bán cho bọn cờ bạc bịp nốt.
Nhiệm vụ của thằng nghiện bảo kê như tôi là khoanh tay đứng đó, dao kiếm lúc liểng trong người. Có “chiến sự” thì nhảy vào đánh người thị uy, hoặc gay go quá thì giải cứu lũ lừa đảo, mở đường máu cho chúng nó chạy thoát ra khỏi xe, cuỗm tiền của bà con và biến mất. Hôm đó, cả nhóm đứng ở chỗ quốc lộ 2, gần Sân bay Nội Bài, xe khách tuyến Hà Nội - Yên Bái dừng lại, chúng tôi lên. Trong vòng nửa tiếng chờ khách, chúng nó lột của một bác bộ đội chừng gần năm mươi tuổi không còn xu nào. Ông uất ức chửi quân lừa đảo, tiền bán cả một rừng luồng, bán cả đàn trâu mộng của tao, mang về quê cho vợ con, giờ bị lũ ăn bẩn nó lấy mất hết cả 45 triệu đồng. Ông rút dao quắm đi rừng ra. Ông gọi cả xe đến làm chứng, rằng ba quân trong bộ bài đều đen hết, lũ lừa đảo! Ông chém con dao xuống sàn xe. Thằng Hải ở Lý Nhân lao vào cứu hai đứa cờ bạc bịp. Nó chém ông khách bán luồng bán trâu giờ trắng tay vì cờ bạc. Ông này là lính trận mạc, rất khỏe và… bất khuất, ông ấy đánh lại, chém lại. Máu thằng Hải chảy lêu lao, hai đứa nhảy vào cũng dính dao túa máu. Tôi rút dao, chạy vào giải cứu, rồi cả lũ nhảy ra khỏi xe, xe máy bám theo đứng đầy ngoài cửa ô tô cứ thế vù đi, đem quân rút chạy. Tiền giắt đầy lưng, tất cả lại lao vào trác táng với ma túy triền miên. Tiền đổ vào mồm thằng nghiện, như đổ nước vào hang chuột ấy. Vài hôm lại lên đường đi lừa đảo, lại cờ bạc bịp và đâm chém. Máu tôi chảy ra, tôi đã ví, mình chích heroin, chính là mình đang chích máu của mình. Không ít lần tôi đã bị chém lại, đã bị công an bắt giữ, xử lý.
Đỉnh điểm của sự đầu gấu do Tuấn “Văn Điển” (là tôi!) gây ra, có lẽ phải là các phi vụ đi cướp xới bạc. Bấy giờ ở đầu đường xó chợ, vỉa hè bến xe bọn vô công rồi nghề, bọn đầu trộm đuôi cướp hay ngả chiếu đánh bạc. Tiền kẹp ở mông, ở đùi mỗi đứa, rồi sấp ngửa đỏ đen trong ánh đèn đường lom dom vàng vọt. Tôi và vài gã nghiện say thuốc, vật thuốc, cứ xách dao bầu lớn, gậy sắt lớn, lao từ bóng tối ra, chém loạn xạ, đâm bừa bãi. Bọn đầu gấu bị bất ngờ, chưa hiểu gì cứ ù té chạy hết. Thế là chúng tôi vơ đồ đạc, vơ tiền nong bỏ túi. Nướng của ăn cướp vào mồm quân… ăn cướp, chúng tôi vào xóm liều hút chích một buổi là hết veo. Tối mai lại nghĩ kế đi cướp, đi đâm chém. Có lần, nhìn thấy vết chém của mình vào tay gã đầu gấu ở bến xe Long Biên, khu Phúc Xá Phúc Tân mà tôi sợ đứng tim. Bả vai hắn máu phun ra thành tia, con dao của tôi vấy máu. Tôi ném bỏ dao, dường như có một phút sự tử tế dâng lên, gã lớp trưởng năm cũ sống dậy trong ký ức của tôi… Nhưng chỉ vài phút thôi, rồi ma túy lại dắt lối đưa đường, đẩy tôi vào bệ rạc và tội lỗi.
Mọi người động viên tôi rất nhiều, ai cũng khuyên tôi đi cai nghiện trên Hòa Bình. Một buổi trưa hè anh rể tôi (nay là Đại tá, nhà báo Đỗ Phú Thọ, báo Quân đội Nhân dân) cùng anh Mai Nam Thắng (nay là Trưởng phòng Báo Quân đội Nhân dân cuối tuần) cùng đưa tôi lên Trung tâm cai nghiện Hòa Bình. Trên chiếc xe máy, dưới cái nắng chói chang, xối xả của tháng sáu, anh rể đưa tôi vào trung tâm làm thủ tục rồi anh về với lời căn dặn và ánh mắt rưng rưng:
- Cậu cố gắng nhé!
- Cố gắng cai nghiện để trở lại làm người, em ạ!
Tôi dạ dạ vâng vâng, nhưng chỉ được vài hôm tôi bắt đầu quậy phá. Lời dạy dỗ, hăm dọa, quy tắc, kỷ luật của bất kỳ ai, tôi đều bỏ ngoài tai hết. Những cán bộ quản giáo lắc đầu chán nản. Tôi bắt đầu tụ tập băng nhóm, đánh lại bọn trấn cướp tiền của “bạn nghiện” đang nằm cai. Rồi những lần đánh nhau bị kỷ luật liên tiếp. Tôi thấy tâm hồn mình như chai sạn hơn, như lì lợm hơn sau những trận đòn thượng cẳng chân hạ cẳng tay của đối thủ dành cho mình và của mình “tương” vào đầu vào mặt các đối thủ khét tiếng nhất.
Nhớ mãi những ngày lầm lạc ấy, người ta “nhốt” chúng tôi, khoảng 50 “thằng nghiện” cực nặng vào một cái phòng 100m2. Chung một cái toa lét bẩn thỉu, chật chội, thêm một bể nước công cộng đen ngòm trong phòng. Nó bẩn dưới mức bình thường rất nhiều. Vừa vào cái, thằng Hoài, là gã giang hồ có tiếng, nó đang là “trưởng buồng”, là đại ca của khoảng 400 học viên vừa đối tượng 05 vừa đối tượng 06 (gái mại dâm và người nghiện ma túy) quyền sinh quyền sát, bắt các học viên phải ăn đòn rồi kêu cầu đến người nhà gửi tiền vào trại cho nó hưởng. Nó gọi tôi lên, thằng “Tuấn Văn Điển” lên đây tao hỏi. Nó ra đòn bắt tôi phải phục tùng. Tôi đánh lại, rồi không đánh nữa. Tôi nói lớn: “Tôi muốn dừng lại để nói chuyện đã. Nói xong anh đánh tôi cũng chưa muộn mà. Tôi với anh là những kẻ nghiện, ra ngoài đời thì không tính, nếu anh muốn đánh nhau tôi sẵn sàng. Nhưng chúng ta vào đây để cai, ở đây có cán bộ quản lý, cần tuân thủ nội quy. Vả lại, anh không nên đàn áp anh em “cùng hội cùng thuyền” như thế, chả tử tế gì, cùng cảnh khổ vì ma túy mà không thương xót nhau thì thôi. Lại giở trò đánh người để ăn tiền dơ bẩn...” Tôi đang nói dở, Hoài dẫn thêm 8 thằng lâu la (trong ấy gọi là “bộ đội”) thân tín của nó xông lên, nó bảo dạy cho tôi một bài học về nhà mà uống nước lá tre phục bệnh thì may ra sống sót. Tôi bảo bọn kia từ từ hẵng xông vào, để tôi dạy cho thằng Hoài một bài học trước đã. Thật ra thì người nghiện họ cũng thông minh như ai, họ biết đâu là Chính, đâu là Tà. Họ dừng tay chờ đợi “tọa sơn quan hổ đấu”. Tôi thấy trong phòng có hơn 40 đôi đũa được lấy mảnh bát vót nhọn đầu dành cho học viên ăn trưa. Tôi bảo, chia đôi bó đũa này ra, tôi với anh làm vũ khí đâm nhau, ai chết trước người đó thua.
Đánh nhau quyết liệt, vớ được phích nước sôi ở góc phòng, tôi mở nút dội thẳng vào đầu thằng Hoài. Nó bị thương nặng, tay tôi bị khâu 8 mũi. Sau này tôi bị kỷ luật, nằm trong buồng “biệt giam”, mỗi ngày ăn một cái bánh mỳ, uống nước không biết có đun sôi không. Phóng uế đại tiểu tiện ra sàn nhà cứ thế mà ngửi, phải hai ngày thì họ cho một cái túi nilon mà tự hót vào đó đem vứt bỏ. Lúc điên lên, chúng tôi chia bè chia cánh, có khi mấy trăm con nghiện đánh nhau vì xích mích lúc ăn cơm, gây nên cảnh hỗn loạn chưa từng thấy.
Nhưng, sau này, lúc ra khỏi phòng kỷ luật, tôi “lên đai lên số” ngay trong mắt học viên, tôi cầm đầu đưa ra một lối sống “văn hóa” trong trại cai nghiện. Hát hò, văn nghệ, làm báo tường. Không lấy tiền của học viên theo “chế độ tổng quản” cũ. Nhiều khi tâm sự tập thể, tôi kể chuyện đời mình và lý tưởng làm một cái gì đó sau khi thoát khỏi ma túy, chứ như thế này nhục cho mình, cho gia đình và xã hội lắm, anh em nghe mà khóc rưng rức.
Một lần, mẹ, chị gái và anh rể lên thăm, nhìn mẹ cùng anh chị, tôi thương họ vô cùng. Phải nói rằng chị tôi đã lấy được một người chồng rất tuyệt vời, anh tốt vô cùng, thương gia đình và rất lo cho các em vợ. Sau những gì mà tôi đã gây ra khiến bất cứ ai cũng phải sợ hãi ấy, anh vẫn hiền lành và hết lòng lo cho các em. Anh đã cùng tôi đi trên cuộc đời với bao thăng trầm và biến cố này. Có lẽ, nếu tôi ở cương vị của anh tôi sẽ không làm được như vậy. Tôi thương chị nhiều lắm, khúc ruột trên, khúc ruột dưới, chị đã nhiều đêm không ngủ được, khóc thương tôi. Tôi biết nếu là nỗi đau hay bất cứ cái gì, kể cả rút máu mình ra cho tôi, nếu làm được, nếu chia sẻ được, chịu đựng được cùng tôi thì dù đau đớn đến đâu chị cũng luôn sẵn lòng. Tuy nhiên, tôi đang bập vào ma túy, cái việc chết thụt của tôi còn đáng sợ hơn hồi 13 tuổi đi bắt cá bị chìm trong bùn lầy kinh hãi ở quê. Trong thế giới của ma túy, chị không giúp được gì nhiều cho tôi, ngoài việc chăm sóc và khóc thương... Suy nghĩ miên man, không khóc mà mắt tôi nhòa đi, hoang dại nhìn vào tít tận đâu đâu. Tôi chợt hiểu ra rằng, để cứu người thân của tôi khỏi thảm họa ma túy đang hành hoành trong cơ thể… tôi, ngoài tôi ra, không ai làm được hết. Kể cả nhà tù, kể cả trại cai nghiện, kể cả giết chóc, đau thương bằng mấy, cũng không thể làm tôi tỉnh ngộ rồi dứt hoàn toàn ra khỏi ma túy được. Chỉ có sự quyết tâm thực sự của bản thân tôi. Tôi đã cắn vào lưỡi mình đến tóe máu, đã khắc chữ vào tay chân mình như tử tù thời phong kiến Trung Hoa để… cho mình phải nhớ. Thú thật, tôi hôm đó, trong cơn xúc động quá mạnh, tôi đã yêu cầu bạn nghiện “thích” (khắc, xăm) cho tôi hai chữ “hạnh phúc” vào dưới lòng bàn chân mình. Tôi bảo, tôi đã chà đạp lên hạnh phúc mà tôi đã có, gia đình tôi đã có, để rồi chuốc lấy buồn bã, xót xa, tủi nhục nối tiếp nhau. Tôi làm vậy, vì cái buổi chiều sơn thôn xứ Mường, ở cửa Trung tâm cai nghiện đó, tôi đã thấy nỗi tuyệt vọng, sự đau đớn như chưa bao giờ đau đớn thế của mẹ mình. Tôi không quỳ lạy mẹ, không khóc rưng rức như một đứa trẻ trước mặt mẹ nữa. Bởi tôi làm điều đó đã cả chục lần. Mẹ luôn là báu vật, là đấng sinh thành mà tôi quý hơn cả sự sống của mình, tôi không sợ mẹ không tin tôi, tôi biết mẹ luôn tin tôi dù tôi có hứa rồi lại vi phạm lời hứa một nghìn lần đi nữa. Sau này, khi đã có con, có nuôi con mới biết lòng cha mẹ, tôi càng thấu hiểu lòng mẹ bao la như biển Thái Bình. Càng hiểu thế nào là câu “cá chuối đắm đuối vì con”. “Nước biển mênh mông, không đong đầy tình mẹ.”
Buổi chiều ở trung tâm cai nghiện hôm đó, như có một cái gì đó soi rọi vào tâm hồn vốn đã chai sạn như hoang mạc cát trắng của tôi, như trận mưa tắm mát cho cây cối đâm chồi nảy lộc sau những ngày hè nóng bỏng, sự thức tỉnh sâu sắc, nó đến dịu dàng như những gì tích tụ hàng ngàn năm khí núi, khí sông. Chính tôi cũng bất ngờ khi bỗng dưng tôi có thể nhìn lại mình, soi rọi lại chính bản thân mình sau biết bao thăng trầm. Tôi tự nhủ, mình phải đặt lại những viên gạch nền móng xây nhà cho tương lai của chính mình. Phải hạ quyết tâm thật sự thêm một lần hoặc nhiều lần nữa, dù vẫn biết phía trước còn muôn vàn khó khăn, vất vả.
Tôi thầm hứa với lòng mình dù có khó khăn, vất vả tới đâu cũng phải quyết tâm “phục thiện” để đi lên trở thành một người có ích cho xã hội, để cha mẹ không còn phải buồn hay bận lòng vì mình nữa. Nghiện ma túy, tôi như một thứ phế nhân thật sự về cả thể xác lần tinh thần, dù một lần nữa phải tập lại từ đầu những bước chập chững đầu tiên bước vào đời, tôi cũng phải làm cho bằng được. Tôi nhận ra, với người nghiện, cái quan trọng nhất để họ từ bỏ ma túy được là tâm lý, niềm tin. Không phải cứ giam giữ, xích nhốt, không phải cứ tống thuốc vào là xong.
Được gần một năm bỗng một ngày, cậu thứ ba của tôi là giảng viên trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội chết vì bị bệnh ung thư. Gia đình lên trung tâm cai nghiện xin phép cho tôi về để chịu tang cậu. Đứng trước linh cữu của cậu, tử biệt sinh ly, tôi nhờ thợ kèn “khóc” cho tôi một bài thê thiết. Không có con đường nào (theo cách nghĩ thông thường) để trò chuyện, để hứa, để sám hối với người đã chết nữa, tôi bèn nhờ anh thợ ở đội nhạc hiếu. Không hiểu sao cậu ấy khóc đúng cái điều tôi đang nghĩ đến vậy, như là cậu ta ngồi trong tim trong óc của tôi mà rên rỉ vọng ra. Tôi đã hứa rằng nhất định cháu sẽ “trở lại làm người”, cháu sẽ bỏ được ma túy, mong được cậu phù hộ và hãy đồng hành cùng cháu, giúp đỡ cháu trở lại “tái hòa nhập cộng đồng”. Một ngày nào đó khi bỏ được ác quỷ ma túy, cháu sẽ đến quỳ trước bàn thờ cậu để “báo công”. Tự đáy lòng, giờ cậu đã khuất núi, cậu thành người đi mây về gió, “vân giá phiêu phiêu”, cháu mà nói sai cậu đừng nể tình ruột thịt với mẹ cháu nữa, cậu cứ vặn cổ cho cháu chết tươi. Bình thường tôi không “mê tín”, không nanh nọc như bà hàng cá kiểu đó đâu. Nhưng buổi tang ma thê thiết đó, không hiểu sao tôi lại nghĩ và thề trước linh cữu cậu mình như vậy...
Hứa với “ma” hay hứa với “thần Phật”, hứa với bố mẹ hay hứa với vợ con, tôi quyết tâm lắm, máu đổ ra để thề tôi cũng thề, chỉ có điều, khi nghĩ đến ma túy, tôi lại… quên béng tất cả. Có khi tôi chỉ nghĩ, “đến với nó” (ma túy) một cái, rồi ta lại tiếp tục… hoàn lương, lại tiếp tục thực hiện lời hứa! Sau đám tang cậu, tôi không lên trên trung tâm cai nghiện nữa mà về quê thăm nhà. Than ôi, được đúng một hôm tôi lại đi tìm ma túy ngay. Cùng hai đứa nghiện đi lên Bái (thuộc Phú Xuyên - Hà Tây cũ) cách nhà hơn chục cây số, mua thuốc xong liền mang ra nghĩa địa ở xã bên cạnh mà chơi. Tôi chơi với cái liều khủng khiếp, nó gấp nhiều lần những ngày bình thường. No dồn đói góp, cơn thèm khát khiến tôi không còn biết gì nữa, dường như “con ma” chất gây nghiện nó bảo tôi, “cần phải chơi thật nhiều để bù vào những ngày bị giam lỏng trong trại cai nghiện kia”. Và, giống như những kẻ đói quá, ăn nhiều rồi chết vì no. Vừa rút kim ra tôi đã thấy đất trời lảo đảo, tôi gục xuống, mọi người đi làm đồng thấy thế liền hỏi thằng nghiện đi cùng tôi, nó là con nhà ai? Cậu bạn nghiện những tưởng tử tế “cùng hội cùng thuyền”, ai dè thấy tôi xốc thuốc nằm đơ ra đấy, cậu ta chuồn êm luôn. Một bà đi hái rau ven nghĩa địa, thấy bảo đứa “chết ngoài bãi tha ma” là con bà Vân làm ở bệnh viện huyện, mới kêu ầm ĩ lên. “Ối trời ơi, bà Vân làm ở khoa sản, bà ấy tử tế lắm. Bận nào tôi đẻ bà ấy cũng đỡ, có khi còn bón cháo bón cơm cho tôi. Cứu lấy cu Tuấn con nhà bà Vân”. Họ sờ thì thấy tôi dường như tắt thở. Thời buổi nhiễu nhương, cái sự đứa nghiện sốc thuốc cũng là bình thường, nó chết có khi là cái thở phào cho cả người thân của nó và xã hội. Đôi khi, chỉ cái chết mới giúp con nghiện giải thoát khỏi tròng ách của ma túy được. Biết đâu, cái chết lại chẳng là một liều thuốc tiên với đứa dạng háng lấy ven trên bẹn chích heroin trong… nghĩa địa làng kia!
Nhờ sự xăng xái muốn làm việc nghĩa cho “bà Vân khoa sản” của bà mẹ nghèo làng bên, tôi (bấy giờ là một thi thể!) đã được đưa về nhà tôi bằng cách nào đó. Bấy giờ tôi mê man không biết gì. Sau này tỉnh lại, bố mẹ tôi, rồi hàng xóm mới kể: Hai người đem xe máy đến. Người chở, rồi người ngồi ngoài, đặt tôi vào giữa, “kẹp ba” mang tôi về nhà. Bố mẹ tôi ngất lên ngất xuống. Ai cũng bảo “thằng Tuấn” đi rồi, rõ khổ. May mà mẹ tôi là người cả đời làm ngành y, bà đã hà hơi thổi ngạt, bà quỳ lạy trời đất, phủ phục trên thân thể tôi… cho đến khi tôi mơ màng mở mắt ra. Hình như tôi đã có chuyến viễn du kỳ lạ trong tâm tưởng, giống như hiện tượng chết lâm sàng ấy, tôi đã gặp cậu, gặp tổ tông nhà tôi, cả những người tôi chưa từng biết mặt trên dương gian. Các cụ, rồi cậu khuyên tôi trở về báo hiếu mẹ cha, báo hiếu với Đời “cháu còn nhiều trọng trách lắm. Cháu phải sống thay cho cậu, để làm những cái việc mà cậu đã không làm được cho cuộc đời này!”. Đừng chết theo cái kiểu đương trai trẻ, ụp đời vào “cơm đen và cái chết trắng”, rồi tụt quần chui vào nghĩa địa hú hí với “nàng tiên nâu”, rồi chết nhục nhã thê thảm và kinh dị trong ấy, trước sự dè bỉu, thương hại của dân làng. Cháu không thương cái thân xác đương trai của cháu, thì hãy báo hiếu cho bố mẹ đi. Cháu chết như thế này, “lá xanh rụng trước”, thì bố mẹ cháu mai đây, có về với các cụ, cũng chả nhắm được mắt vì đau, vì ân hận, vì hổ thẹn với đời, cháu nhé.
Tôi tỉnh dậy, bằng một nguồn năng lượng kỳ lạ nào đó. Ngay hôm sau, tôi tự động xin với gia đình để cho tôi tiếp tục “trở lại làm người” bằng cách đi lên “giam lỏng” mình trong Trung tâm cai nghiện Hòa Bình. Trước sự quyết tâm của tôi, bố mẹ rất lấy làm ngạc nhiên. Mẹ sờ nắn cơ thể tôi, mẹ vẫn chưa bao giờ không coi tôi là thằng cu của mẹ, mẹ vẫn nghĩ là mẹ cần cho nó bú mớm, cần xi đái rửa ráy cho tôi như thuở trước… Mẹ mân mê bàn chân tôi lúc tôi nằm khóc, thấy dưới lòng bàn chân vết xăm đen kịt hai chữ “Hạnh phúc”, mẹ mỉm cười bao dung. Con quyết tâm thế là mẹ mừng lắm. Nếu là gánh nặng, mẹ sẽ gánh thay, gánh đỡ cho con được. Nếu mẹ chết thì con đỡ khổ, mẹ sẽ chết ngay. Nhưng việc con mắc nghiện ma túy vật vã bao năm thế này, nó là nỗi đau trong tâm tưởng, là vũng lầy dơ bẩn mà chỉ tự bản thân con mới nỗ lực vượt lên được thôi. Nay, mẹ không biết làm gì, ngoài việc thương yêu và động viên con thôi. Nay con đã biết ân hận, đau đớn đến độ xăm hai chữ “Hạnh phúc” vào dưới gan bàn chân, thì mẹ… như được sinh ra lần thứ hai. Mẹ không trách con đâu, chỉ buồn là mẹ không thể cùng con đánh đuổi Con Ma Túy ra khỏi cơ thể, khỏi khối óc và con tim “tật nguyền vì nàng tiên nâu” của con được…
Sau này tôi nghiệm ra, cứ nhốt vào phòng kín trong trung tâm cai nghiện, xích chân lại, hay gây án bị bắt đi tù thì tôi… xa rời được ma túy. “Giam” bao lâu thì số ngày chia tay “nàng” được đúng bấy lâu. Sểnh ra là đi tìm thuốc, không vặt được tiền của ai thì đi ăn cướp. Đến bây giờ, gần 40 tuổi đầu, quả là tôi không thấy có thứ nào trên đời khó lý giải, ma mãnh, lắt léo, thất thường, kinh hoàng như ma túy.
Sau đợt xin đi trung tâm để đi tìm “con người” xưa kia của mình đó, tôi ở thêm nửa năm nữa tại “thế giới những con nghiện”. Thành tích bất hảo của tôi, sở dĩ nó ập đến đáng sợ như vậy, vì tôi có cảm giác đời mình xuống dốc không phanh, nó trôi đến cái chỗ không còn gì để mất nữa. Cảm giác đó thật đáng sợ. Nó đáng sợ hơn ma quỷ và đao kiếm. Nó ăn ruỗng cơ thể và tâm hồn tôi, tôi sẽ chết vì cảm giác đó, trước khi tôi tắt thở theo cái nghĩa sinh học. Dù gây ra những trận “vỡ trại” đáng oán thán ở Hòa Bình, dù nhiều bạn nghiện Hà Nội và Hòa Bình liên kết với nhau vẫn phải thua gã khùng là “Tuấn Văn Điển” (cách họ nói về tôi “trên giang hồ”), nhưng tôi cũng vẫn thích ở trại hơn. Vì ở đó, dù chả cai được thì ít ra tôi cũng sẽ cách ly được với ma túy và các xới nghiện đốn mạt khác… hàng năm trời. Có người cay đắng bảo, loại như tôi, chỉ ở trại cai nghiện từ lúc trẻ cho đến khi chết, thì mới bỏ được ma túy. Chỉ có cái chết may ra mới cách ly tôi khỏi ma túy thôi.
Những ngày ở trong trại, tôi bị ám ảnh bởi ma túy, nỗi thèm khát nó, sự ân hận vì dan díu với nó cứ thế giày vò. Nhiều năm sau đó, nhất là 3 năm đầu từ khi cai được, tôi vẫn thường mơ mình đang bị ép sử dụng heroin. Tôi đã chiến đấu với ma túy cả từ trong giấc ngủ, sự giành giật giữa phần người và phần con lên tới đỉnh điểm, đến nỗi khi giật mình tỉnh dậy tôi sợ hãi toát mồ hôi, lúc tỉnh dậy thấy mình vẫn đang cai được, thì niềm hạnh phúc tràn ngập. Sự sung sướng lên đến tột đỉnh. Trong một lần nghỉ Tết, gia đình đã xin phép cho tôi được về thăm nhà. Rời trung tâm, tin chắc là mình đã cai được, ngoảnh lại thấy các học viên đông đúc đang nhìn theo, tôi đã ứa nước mắt. Tôi tự nhủ, sẽ có ngày mình trở lại đây, cứu giúp những người bạn tội nghiệp này. Chắc chắn sẽ có ngày đó. Khi ấy, thân hình xác xơ đã tốt tươi trở lại sau thời gian cách ly với ma túy, vẫn khả năng ăn nói hoạt bát, vẫn gương mặt mà đến tận lúc vào trại cai nghiện vẫn bị nữ học viên “bẹp tai” mê tít, tôi đã gặp Hương.
Đó là chuyến xe định mệnh.
Tôi rời trại, lòng thênh thênh vô định, rời nhà chị, tôi bắt xe về Phủ Lý. Hương lấy chồng ở Lào Cai, nhà ở Lào Cai, nhưng đã bỏ chồng, quê gốc Hương cũng ở Duy Tiên, gần nhà tôi. Hôm ấy, Hương về thăm nhà. Hơn tôi vài tuổi, đã có chồng và hai con, cũng đã ly dị rồi, nhưng nhan sắc của cô nữ học viên Nhạc viện Hà Nội vẫn vô cùng quyến rũ. Má đỏ ửng, dáng đi yểu điệu, ăn nói như rót mật vào tai người khác.
Như là có trời sắp đặt, xe đông thế, mà cả hai cùng bước về một hàng ghế, ngồi cạnh nhau. Mà cũng tình cờ thật, cả xe còn mỗi hai ghế trống. Lúc xe ngồi nghỉ, tôi mời Hương hút thuốc lá, Hương rút một điếu rồi lí nhí nói “cảm ơn anh”. Tôi bật lửa cho Hương châm thuốc. Hai gương mặt ở gần nhau lắm, hai đứa nhìn nhau cười lỏn lẻn. Hương không biết tôi từ trại cai nghiện về thăm nhà sau cả năm “biệt giam”, tôi cũng không biết Hương đã có chồng, có 2 đứa con và bỏ chồng những 5 năm rồi. Hương lại còn hơn tôi 6 tuổi! Hỏi thăm, rồi đồng hương, thì ngồi cùng xe mà xe đi về có duy nhất một hướng, dễ đồng hương lắm. Chúng tôi nói hết chuyện trên trời, dưới đất. Mãi gần kết thúc chuyến xe, chuyện như pháo rang, chúng tôi mới giật mình quên chưa hỏi tên của nhau! Rồi tôi trêu cô ấy:
- Nếu anh thích em và sau này lại còn yêu em thì sao? Hương bảo:
- Anh Tuấn tìm làm sao được em! Em sẽ biến mất để tránh gặp rắc rối khi anh tỏ tình. Mà anh này nói chuyện nghe buồn cười nhỉ, vừa quen đã nghĩ đến yêu? Tình yêu thì chỉ có một, nhưng những cái tương tự tình yêu thì có đến hàng nghìn. Anh sẽ không tìm được em đâu!
Tôi trả lời:
- Khi anh đã thích em và yêu em rồi thì dù em có trốn xuống đất thì anh cũng thuê máy xúc đào em lên. Em có lên giời anh cũng mọc cánh bay theo. Em chưa hiểu sự nhiệm màu của tình yêu rồi!
Hai má Hương ửng hồng trong buổi chiều đầu đông ấy, rồi tôi hỏi mượn cô ấy cái bật lửa để hút thuốc. Và cứ thế, tình yêu của tôi đến ngay từ cái nhìn đầu tiên, tôi đã yêu Hương với tất cả trái tim mình, với tình yêu đầu đời mà tôi có. Tôi yêu bằng những gì là phần Người cuối cùng còn lại ở Con Nghiện là tôi bấy giờ. Tôi đã thoáng nghĩ, với tình yêu của Hương tôi có thể thay đổi được hết thảy mọi thứ. Có thể làm lại được cuộc đời. Và kỳ lạ thay, vẻ như Hương cũng hết mình khi yêu tôi, cô ấy đã bỏ hết tất cả vì tôi, bỏ ngoài tai những lời mà người thân cùng bạn bè khuyên nhủ, ngăn cản - do chênh lệch tuổi tác, do “trai tân mà lấy nạ dòng”, do ai đó đã nghi ngờ hoặc biết là tôi nghiện ma túy. Nhưng, tình yêu với tất cả sự dịu ngọt, niềm mơ ước về một chân trời mới, một tương lai xán lạn đang chờ đón, chúng tôi đã lao vào nhau, bỏ ngoài tai tất cả mọi lời lẽ không phải của tình yêu, và của chính chúng tôi. Nhiều hôm, trời mưa như trút nước, đường xá bấy giờ xấu và nhỏ, tôi phóng cái xe máy cà tàng 80km số từ nhà mình lên Nhạc viện Hà Nội để… tặng Hương một bông hoa hồng. Lên đến nơi, hoa đã nhàu nát, má Hương ửng hồng vì xúc động, tôi bảo “hai má em là bông hoa đẹp nhất”, chúng tôi để bông hoa tơi tả ở yên xe máy và hôn nhau trong mưa. Quả thật, trái tim luôn có những lý lẽ riêng của nó.
Trong cơn say nồng, rồi qua cơn say nồng với tình yêu thật giản dị, trong sáng, Hương đã dần dà biết rõ hơn cái việc tôi nghiện ma túy. Hương rất buồn nhưng Hương cũng không kỳ thị, ghét bỏ gì tôi. Hương động viên tôi rất nhiều để tôi có thể vượt qua được những cám dỗ đó. Tôi hứa, vẫn chỉ là lời hứa của một thằng nghiện, tức là hứa rồi để mà hứa tiếp! Được một thời gian chúng tôi cưới nhau, cưới nhau một cách vội vã như thể Trái đất này ngày mai sẽ không còn nữa, đúng như lời các cụ nói “sau tuần trăng mật là vỡ mật”. Bấy giờ chúng tôi mới nhớ tới lời can ngăn của bố, mẹ trước khi cưới. Mẹ tôi thì dĩ nhiên coi cậu quý tử trẻ tuổi của mình là báu vật, dù là báu vật nhuốm màu heroin khiến ngày nào bà cũng phải giặt những bộ quần áo sực nức chất gây nghiện. Báu vật ấy không thể lấy một đàn bà nạ dòng đã có hai mặt con, đã bỏ chồng… Bố tôi cũng bảo: “Trai tân mà lấy nạ dòng/ Như nước mắm thối chấm lòng lợn thiu”. Không được đâu con ơi, người ta giữ con ghê lắm, vì “nạ dòng vớ phải trai tơ…”. Nhưng rồi ba bảy hai mốt ngày là chán nhau, cãi nhau, khinh miệt nhau đấy. Trước khi cưới, tôi biết bố thương tôi và hiểu đời hơn, nên tôi lên nhà trên, chủ động pha trà, dùng tài thuyết khách với tất cả sự mê đắm của tình yêu mà thuyết phục ông đồng ý cho cưới. Nhà tôi gia giáo, nề nếp. Tôi nghiện thì cũng vẫn phải nề nếp, gia giáo, bố mẹ không đồng ý, không bao giờ tôi dám cưới Hương. Bố ngồi cả đêm bàn tính, rồi ông bảo, chắc chắn con và Hương yêu nhau thật lòng, không có một sự vụ lợi nào, lừa dối nào ở đây cả. Sự chênh lệch tuổi tác và hoàn cảnh như thế, có thể khắc phục được. Con nghiện ma túy như thế, là loại “độc dược” đối với gia đình và xã hội. Với gia đình mình, ở tuổi con, con rước một người đàn bà hai con về, xóm làng sẽ nghĩ con cưới một “của độc” khác nữa. Thôi thì “độc trị độc”, biết đâu tình yêu của Hương lại chẳng làm con tỉnh ngộ. Sáng hôm sau, bố thảo luận với mẹ ba mươi phút. Đám cưới sau đó đã diễn ra như dự định. Chị gái tôi thì vẫn một mực phản đối. Chị đi “xem”, người ta bảo: tôi lấy Hương không thay đổi được số phận nghiện của tôi. Anh rể quen biết các nhà báo ở Sơn La, nơi Hương làm việc với đoàn nghệ thuật ở đó, thì được “bắn” tin: Hương là gái đã có chồng có con ở tít miền thượng du. Lấy nhau thậm chí còn có đổ máu, phiền hà. Tôi mặc kệ, vì đang “say máu” với tình yêu sét đánh. Bố thì muốn “dĩ độc trị độc”, cho tôi lấy vợ như một cách xấn sẹo con ngựa bất kham. Ai ngờ, lời phán của ai đó với chị gái tôi, hình như rất đúng. Hôm cưới chị… không quan tâm. Anh rể một mực lo toan, anh mới mua được cái xe máy Dream mới, phóng về Duy Tiên lo đám cưới. Bấy giờ cái xe máy đó là cả một gia tài, thanh niên ai nhìn thấy cũng ước ao. Bản thân tôi, trước ngày mặc comple cài hoa trắng trước ngực làm chú rể, tôi cũng lấy xe đó phóng vèo vèo. Người anh em thân thiết của tôi cũng lấy ra phóng đầy tự hào, chạy vạy việc nhà có đám cưới. Rồi chúng tôi gây tai nạn, làm hỏng xe. Tôi và cậu ấy đã tranh luận, rồi không ngã ngũ, rồi thượng cẳng chân, hạ cẳng tay. Đánh nhau tơi bời. Máu chảy lênh láng trên cánh tay tôi, sẹo bây giờ vẫn còn. Chị thương tôi lắm, chị thở dài: “Tao đã bảo cưới vào là… đổ máu mà”. Nhưng nỗi đau hôm đó mới chỉ là bắt đầu.
Sau này, dù có đổ vỡ, chúng tôi vẫn luôn tôn trọng nhau. Đến tận khi tôi viết những dòng này, dù tôi đã trải qua chết lâm sàng vì Hương, mẹ tôi đã gặp những tổn thương suốt đời không nguôi ngoai vì Hương, nhưng chúng tôi vẫn tôn trọng Hương. Và có lẽ Hương cũng vậy. Chắc chắn, với mọi tội lỗi chỉ nằm ở cái Thằng Ma Túy thôi.
Đang dở chuyện về hồi tôi mới cưới Hương. Liên tiếp các đổ vỡ xảy ra. Với bản chất của một thằng nghiện đang mang trong mình cơn đói thuốc hành hạ, cứ sểnh ra là tôi lại đi với đám bạn du thủ du thực, đầu đường xó chợ của mình. Hương đã khuyên nhủ, rồi quyết liệt, lăn xả vào ngăn cản không cho tôi đi. Đến mẹ đẻ tôi tôi còn chống lại, còn chửi bới để có thuốc hút, có heroin mà hít, mà chích, thì Hương làm sao ngăn được tôi? Thế là lời chửi bới cất lên, những trận đòn của một gã từng vào sinh ra tử nơi mũi dao đầu kiếm chốn giang hồ cứ thế… rơi xuống đầu Hương. Rõ khổ, Hương liễu yếu đào tơ, xinh xắn, nhỏ nhẹ ngần ấy, một tâm hồn mong manh ca sỹ với chất giọng dịu dàng từng đoạt giải Nhất Liên hoan toàn tỉnh, rồi giải Ba cuộc thi khu vực phía Bắc, lọt vào vòng chung kết của cuộc thi Sao Mai điểm hẹn (độ ấy, giải Sao Mai còn uy tín lắm): làm sao Hương sống nổi trước gã vũ phu đói thuốc ấy. Tôi đã đánh Hương, và chúng tôi đánh nhau bất chấp thời gian, bất chấp… không gian. Cứ không như ý là lời nói tung ra, là ngón đòn ập tới. Sự hành hạ cả về thể xác và tinh thần, đã làm cho tình yêu của Hương dành cho tôi ngày càng ít dần đi, nhường chỗ cho sự căm thù, sự căm thù của một người phụ nữ từng đổ vỡ quá lớn trong hôn nhân, giờ lại bị một thằng nghiện đã làm hại cuộc đời cô một lần nữa.
Hương biết bản tính nghiện khó bề lay chuyển, cô không cứng nhắc nữa, mà khéo léo chuyển sang đạo diễn đời chồng mình một cách rất công phu. Phải nói, chỉ có lấy người nạ dòng như thế, tôi mới có được những tháng ngày chia sẻ, cảm thông, dẫn dắt đến con đường thoát khỏi Ma túy tuyệt vời đến như vậy. Điều gì sẽ xảy ra, khi mà bấy giờ tôi lại cưới một cô bé tuổi đôi mươi, ăn chưa nó lo chưa tới, giận chồng là chửi bới hoặc bỏ về nhà bố mẹ đẻ? Hương đã thủ thỉ bảo tôi cùng nàng mở một Bar - Café - Ca nhạc. Tôi có tài tổ chức, ăn nói, khéo léo thu xếp công việc, quản lý nhân viên. Hương có tài trang trí, chăm sóc quán xá, đặc biệt cô có giọng hát trời phú làm sôi động thế giới cà phê ca nhạc ở thị trấn huyện, ngay cầu Hòa Mạc, bên dòng sông quê thơ mộng xứ đồng chiêm trũng. Cùng với số tiền bố mẹ đi vay, chúng tôi gom góp mua tre nứa, loa đài, bàn ghế cốc chén, mở một cái quán khang trang, mang phong cách vừa đồng quê lại vừa phố thị. Nhìn đã bắt mắt, quán đông khách ngay từ ngày khai trương, với giọng hát đắm say lòng người của bà chủ xinh đẹp. Phải nói, quán là một điểm vui chơi lành mạnh của những người lao động sau những ngày làm việc mệt nhọc. Tối cuối tuần đến quán ngồi nhâm nhi cafe, nghe ca nhạc, trong không gian xanh mát, êm đềm như thế, quả là không ai không thấy thú vị. Công việc làm ăn rất thuận lợi, được một thời gian chúng tôi cũng rất vui vẻ, quả như “âm mưu” của Hương, tôi đã quên béng nỗi ám ảnh ma túy trong thời gian “chung tay mở một cửa hàng” để hoàn lương ấy. Hàng ngày, cứ 6 giờ chiều hai vợ chồng lại ra “sân khấu ca nhạc”, pha cà phê bưng tận tay cho khách. Đêm, xong việc, lại chở nhau về căn nhà bình yên nơi có bố và mẹ tôi đang mỉm cười tràn trề hy vọng. Công việc tiến triển tốt cũng đồng nghĩa với việc có tiền. Túi rủng rỉnh, nhân viên chạy bàn ào ào, có các em đánh đàn kéo nhị mở một sân chơi nhạc sống hẳn hoi, thành thử tôi rất nhàn rỗi. Nhàn cư vi bất thiện, tự dưng mơ màng nhớ lũ bạn du thủ du thực, tự dưng nhớ mùi heroin đã giày vò mình bao năm tháng. Một đêm nọ, tôi lại lấy tiền bỏ túi, nhảy qua tường, bỏ nhà trốn đi mua ma túy. Sau một cữ phê tè phè, nằm vật ra bờ ruộng thở dốc, tôi lấy hết dũng khí tỏ vẻ… thư thái đi về nhà. Dù cáo già cỡ mấy, chuyện này cũng không qua được mắt Hương. Thế là Hương cũng buồn không muốn làm gì nữa. Doanh thu sa sút trông thấy. Khi cả nhà, cả xóm làng biết “thằng Tuấn lại nghiện”, thì tôi đã chìm sâu vào các cữ thuốc ngày càng đắt tiền hơn, nhiều độc tố và chất kích thích đáng sợ hơn. Lại thêm, trong đội đàn óc-gan của quán, có một cậu nghiện lòi mới xin việc. Liếc qua mặt nó, tôi đã thấy hình bóng xấu xa của tôi độ trước, tôi điên lên, tôi chửi bới ghê tởm. Nhưng trong cuộc đấu tranh tư tưởng ấy, tôi đã bị thằng nghiện ấy quyến rũ, rằng có bạn nghiện chia nhau vào liều thuốc lên tiên, còn gì bằng. Một công đôi việc, nó đánh đàn mua vui cho đời, mua thuốc về tôi với nó cùng mua vui. Tôi trả tiền công cho nó quán thêm xôm trò, đồng thời cũng là trả tiền cho một đệ tử cùng đốn mạt giúp tôi đi thật nhanh, thật chuẩn đến giây phút… chơi ma túy. Lại thêm những ngày ấy, cầu Hòa Mạc bắt đầu được khởi công, bụi bặm, tắc đường, gồ ghề, ổ voi ổ chó, bao giờ bị buộc phải đi qua thì thiên hạ bịt mũi lại lầu bầu chửi đám thi công và đám giám sát quản lý vô trách nhiệm, chứ họ chẳng bao giờ lững thững tay đút túi quần ra khu đó để ghé quán cà phê ca nhạc của vợ chồng Tuấn - Hương nữa. Vợ buồn, chồng tái nghiện, không gian bị chọc tiết, bởi bụi bặm, bởi trong quán thì bật nhạc, ngoài đường thì họ hàn xì lấp lóe, khoan đục đinh tai nhức óc. Cùng thời gian đó, con nghiện trong tôi tái xuất giang hồ bằng cách đánh Hương như đấm bao cát. Hương nói nặng lời, Hương nghiêm khắc với tôi, vì bản tính nàng thương chồng thôi. Tôi đánh Hương, vì sự xui khiến của con quỷ Ma túy thôi. Chúng tôi đánh chửi loạn xạ cả xóm làng. Bố tôi lại đọc “trai tơ mà lấy nạ dòng/ như nước mắm thối chấm lòng lợn thiu”.
Bỗng một hôm Hương đùng đùng nổi giận bỏ đi đâu đó hai ngày liền, rồi về với một hộp thuốc là lạ trong tay, cô ấy bảo là thuốc cai nghiện. Đặt xuống bàn trước mặt tôi Hương dịu dàng và quyết liệt, nói:
- Anh Tuấn chọn đi! Một là tôi, hai là anh tiếp tục nghiện!
- Nếu anh chọn tôi thì anh uống thuốc cai nghiện này, còn nếu chọn ma túy thì tôi đi ngay bây giờ, chỉ với một cái valy giống như ngày tôi về căn nhà này làm vợ anh, vợ một người nghiện chỉ biết hứa và hứa...
Dĩ nhiên là tôi chọn Hương chứ không đời nào tôi chọn ma túy để mất một người vợ dễ thương như thế. Tôi thật sự yêu Hương, cho đến bây giờ, khi chúng tôi đã trải qua những biến cố mà nhiều người không ngần ngại gọi là “lòng căm thù”, sự “oán thán lên đến tột cùng”, nhưng chưa bao giờ tôi thôi trân trọng tình yêu Hương dành cho tôi. Và tôi vẫn cứ yêu Hương. Nằm trên gác hai ngôi nhà tuổi thơ của mình, bố mẹ già dõi theo con từng bước từng bước từ nhà dưới, tôi nhận sự chăm sóc đặc biệt của Hương, từng bữa ăn giấc ngủ… Tôi và cả đại gia đình đang thực hiện một công việc lớn, lớn nhất trong đời tôi: tiếp tục cai nghiện, lần này hy vọng lại duềnh lên trong mắt mọi người. Chị gái và anh rể tôi từ Hà Nội cũng về thăm, không ngớt nói về cái ngày nhờ thuốc thang mà cậu Tuấn bỏ hẳn được ma túy. Được ba hôm, tôi bắt đầu tỉnh táo lại và tiếp tục ra đầu đường gia cố lại quán cà phê, chúng tôi vẫn nghĩ, nếu trồng nhiều cây xanh và che đậy kín, thì không gian của quán vẫn thôn dã thân thương. Và khách vẫn đến. Chúng tôi lại có đồng ra đồng vào như xưa. Đi ra quán làm việc, buổi tối tôi lại trốn đi ngay. Chính tôi, ngay lúc đó và cả bây giờ nữa, tôi cũng không hiểu ma quỷ dẫn lối thế nào mà tôi lại bạc ác với người thân của mình ngần ấy. Tôi đổ đời đốn mạt theo ma túy ngay lập tức, ngay khi giọt nước mắt hy vọng của đại gia đình chưa khô trên gương mặt, ngay khi việc tôi quỳ lạy xin mẹ tha thứ được… vài phút. Chỉ có thể ngửa cổ lên trời mà than vãn: ma túy! Một thứ quái đản không tài nào hiểu nổi. Nó kinh quái và bất tường đến dị mọ!
Đêm ấy, tôi trốn đi, Hương thân nữ nhi một mình, son phấn lúc biểu diễn mơ màng ngoài sân khấu quán cà phê còn sực nức, Hương bỏ tất cả, cứ thế phóng xe máy đi khắp các ngõ ngách thối tha nhất của đám nghiện để tìm chồng. Hành động đó, đã khiến tôi quỵ ngã vì sững sờ. Đám bạn nghiện bỏ lại tất cả, bỏ cả giày dép mà chạy. Chúng tôi chạy vì thấy gương mặt đẹp của Hương long lên sòng sọc, hai tay cô cầm hai con dao. Cô xông vào bè lũ bán ma túy và dùng ma túy, tiếng hét của cô gào xé, dõng dạc, điên loạn. Cả cái xóm liều náo loạn, không ai nỡ đánh một người như Hương. Nghiện cũng là người, họ hiểu tấm lòng và nỗi đau của Hương, họ lặng lẽ bỏ đi. Riêng tôi lỳ mặt lại, tôi vẫn ngồi im, mặc hai con dao huơ qua mặt. Hương ngã vật xuống sau cơn chấn động quá lớn. Hương quay ra năn nỉ tôi, trách móc tôi. Hương dùng cả “mềm nắn” và cả “rắn buông”, tôi vẫn đờ đẫn với cơn phê bất tận. Hương không còn cách nào khác, cầm hai con dao, xỏ dép cao gót, lặng lẽ rời ổ nghiện với đủ các thành phần. Nơi ấy, kẻ táo tợn nhất còn sợ hãi. Nơi ấy, lúc không bị những cơn sang chấn vì thương chồng, thương phận mình lấy phải thằng nghiện, thì có đến 10 kiếp, có đến “bố bảo” Hương cũng không dám nghĩ đến việc… mình sẽ vào đó!
Sau cơn “thăng thiên” vì ma túy, hình ảnh Hương điên loạn vì bảo vệ chồng trước ma túy đã làm tôi xúc động sâu sắc. Đêm, ngật ngưỡng về đến nhà, Hương vẫn nằm với hai cái gối ướt đầm nước mắt. Cô ấy nhẹ nhàng khuyên nhủ tôi, nhưng tôi đã quên mất cái xúc động sâu sắc kia và lại đánh cô ấy. Hương tuyệt vọng xuống nhà dưới, vào nhà tắm mấy tiếng không ra. Tôi đạp cửa xông vào thì thấy đỏ đòng đọc toàn máu, máu loang ra chảy thành vệt xuống khu thoát nước. Hương đã cắt tĩnh mạch cổ tay của mình để tự tử. Mẹ tôi, bà bác sỹ khổ sở, lại dùng chuyên môn của mình cứu vợ của cậu con trai chết lâm sàng ngoài nghĩa địa vì sốc thuốc hôm nào. Tôi vội vàng bế Hương lên, băng bó rồi đưa thẳng vào bệnh viện huyện. Các bác sỹ truyền máu xong, người Hương vẫn còn xanh rớt, hơi thở yếu và ngắt quãng. Hương thơ ngây nghĩ rằng mình không sống được bao lâu nữa, cô khóc, mắt nhắm nghiền, vẫy tôi lại gần rồi bảo:
- Em rất yêu anh! Nhưng em không thể sống được với một thằng nghiện! Em chết đây. Kiếp sau nếu còn yêu nhau, anh đừng nghiện nữa nhé…
- Em chỉ có con đường chết mới không bị người đời nguyền rủa, cười chê vì yêu và lấy một người nghiện đến mức ấy. Anh đừng giận em, em đi đây!
Ôm cô ấy vào lòng tôi hứa sẽ quyết tâm cai bằng được ma túy, hai vợ chồng cùng nhau khóc, cả phòng cấp cứu đứng xem.
Các bác sỹ đều là đồng nghiệp lâu năm, rất quý mẹ tôi. Họ đã từng chứng kiến cảnh tôi lên cơn nghiện, kéo lê đôi chân với xích sắt lẻng xẻng qua cổng bệnh viện để đi mua ma túy. Lại thấy con dâu của mẹ tôi tự tử vì không chịu được cảnh “bát cơm chan đầy nước mắt” với chồng đổ đốn với ma túy.
Ít lâu sau, trong một trận đòn khác, buổi chiều ấy, Hương đã ra sông tự tử. Cô đứng trên cái mố cầu xây từ thời thuộc Pháp bị bỏ hoang. Cô suy nghĩ, cô khóc, chuẩn bị nhảy xuống sông thì có người phát hiện, họ kêu ầm lên, quá nhiều người đến can ngăn và xem. Trước sự quyết liệt của Hương, quyết ngăn cản chồng khỏi ma túy, quyết liệt chống lại một cuộc hôn nhân mà giữa hai vợ chồng có ác quỷ heroin nằm chình ình quanh năm suốt tháng…, tôi đã sợ hãi. Tôi sợ mất Hương, sợ phụ tình yêu của Hương. Tôi lại quyết tâm uống thuốc, cai nghiện được… hơn một tháng. Hương đã vui trở lại, nhưng rồi trong một hôm đi đám cưới, bạn bè rủ rê tôi lại lao vào ma túy. Về nhà, với ánh mắt của một con thú hoang, Hương biết ngay là tôi đã phạm lời hứa như những lần vi phạm khác. Cô ấy không nói gì, chỉ khóc, sáng sớm hôm sau khi cả nhà chưa có ai dậy, cô ấy đã lặng lẽ bỏ đi với một chiếc valy và bức thư để lại mong tôi sẽ cai được, ngày nào cai được ma túy cô ấy sẽ trở về. Tôi lại cai được hơn một tháng với sự giúp đỡ của gia đình, tôi lên đường đi tìm Hương. Buồn chán trốn về nhà mẹ đẻ tận trên Lào Cai, nhìn thấy tôi với đôi mắt ngấn lệ, Hương xúc động không nói nên lời. Tối, hai đứa đi chơi phố núi, vừa đi cô ấy vừa khóc và nói:
- Em chỉ yêu một mình anh, nhưng nếu để sống với anh và cả ma túy nữa cả cuộc đời này, thì… em không thể! Vì cuộc đời em, trước khi gặp anh, vốn đã khổ lắm rồi!
Bố mất sớm nên em phải ở với mẹ và em trai, tự lập từ năm 18 tuổi đến nay, với biết bao vất vả trong cuộc đời, cứ nghĩ lấy chồng sẽ được dựa vào chồng, ngờ đâu anh lại ra nông nỗi này. Nếu anh bỏ được ma túy, thì em về với anh, còn nếu không thì mình chia tay luôn từ bây giờ.
Ở phố núi xa xôi ấy được ba hôm với lời khuyên nhủ của mẹ vợ và với rất nhiều lời hứa của tôi, tôi cùng Hương lại xuôi tàu về Hà Nam. Về đến nhà được hơn một tuần nữa, hàng ngày chúng tôi chở nhau lên quê gốc nhà Hương (cách làng tôi không xa, ở cùng một huyện) chơi. Chúng tôi ăn cơm với ông bà ngoại và các cậu. Lại mở quán, lại có tiền, tôi lại quay cuồng quên hết mọi ngọt ngào trước đó, lại bắt đầu trốn đi tìm heroin. Mỗi khi đủ thuốc, như hàng nghìn lần trước đó, tôi mới bình tĩnh nhìn lại mình, tôi ân hận lắm.
Có lẽ ai đó đọc những dòng tự sự này của tôi, họ sẽ chán nản, tuyệt vọng, sẽ không muốn đọc nữa bởi cái điệp khúc: tôi cai được, tôi đi tìm thuốc, tôi khóc hứa và ân hận muốn… cai. Cai lại nghiện, nghiện lại cai. Cai lại nghiện. Cái vòng luẩn quẩn đáng sợ đó, vì sao tôi và hàng nghìn người khác cứ cố thoát ra mà không sao thoát được nhỉ? Có người chặt tay mình đi, mổ bụng lôi ruột mình ra, đập vỡ mặt mình đi để quyết cai nghiện, mà nghiện vẫn hoàn nghiện. Ôi, ma túy - nó là cái gì đó không tài nào hiểu nổi! Tôi hận mình vì đã làm khổ nhục thêm cho một người phụ nữ hết mực yêu tôi, Hương đã bỏ hết vì tôi (ngày đó Hương đang học Nhạc viện Hà Nội). Bỏ hết những tháng ngày sinh viên đẹp đẽ của mình với một tương lai tốt đẹp đang chờ đón, để rồi Hương đón nhận những trận đòn vô tội vạ, những cuộc cãi vã náo loạn một vùng quê...
Một thời gian sau, cô ca sỹ tỉnh lẻ ấy, cô vợ một gã nghiện mở quán cà phê ca nhạc ấy đã đi thi tỉnh được giải Nhất. Đưa vợ đi nhận giải nhất trong ánh mắt ngưỡng mộ của đông đảo người xem, tôi cảm thấy mừng cho Hương, tôi cũng rất lấy làm vinh dự nữa. Nhưng ngẫm phận nghiện lại cai, cai lại nghiện cả đời của mình, từ đó, trong tôi xuất hiện một ý nghĩ: phải chia tay Hương cho đời cô ấy đỡ khổ. Con chim quý phải ở lồng son, sao “con chim quý” như Hương mà lại ở “cái lồng rách nát hẩm hiu” như đời tôi được? Tôi chưa nói điều đó với Hương, sợ Hương buồn.
Chúng tôi càng ngày càng cãi nhau nhiều. Có lần đánh chửi nhau, tôi đánh Hương, Hương đá vào chỗ hiểm làm tôi lăn ra ngất xỉu, gia đình phải đưa đi cấp cứu. Bản chất là chúng tôi yêu nhau, muốn tử tế với nhau, nên không dứt áo ra đi được, mà cứ chành chọe như hai đứa trẻ mới lớn. Bản chất là tôi biết, Hương đã nổi tiếng, Hương cần một cuộc sống khác, chứ không phải là sống với một thằng nghiện không thể nào cai được như tôi. Có lúc, tôi đã dìm mình vào ma túy, để Hương không còn gì nuối tiếc ở tôi nữa, Hương ra đi cho thanh thản. Đời Hương cần một người tử tế hơn tôi. Sau này, nếu cai được, tôi sẽ bù đắp lại cho Hương những tháng ngày đau khổ tột cùng đó. Nhiều người bảo Hương yêu tôi vì những lẽ khác ngoài tình cảm. Có người bảo, tôi là con một, nhà giàu. Tôi nói rất hay làm Hương ảo tưởng. Có người bảo, tôi nghiện ma túy nên tình dục rất tuyệt vời, làm đàn bà dính vào không thoát ra nổi. Tôi không tin Hương đến với tôi vì bất cứ cái gì ngoài tình yêu. Bởi Hương đã dùng dao lam cắt vào tĩnh mạch mình để chết, đã muốn nhảy cầu rồi nhảy lầu tự tử, nếu không cấp cứu nhanh, chắc chắn Hương đã chết. Tôi muốn cô ca sỹ “Sao Mai” đó tỏa sáng, chứ không phải ở cái quán cà phê phố huyện với căn phòng toàn chửi bới đánh đấm của gã nghiện là tôi. Vì thế tôi và Hương đánh, cãi, chửi nhau dữ dội hơn, tôi công khai đi vào xới nghiện. Người ta bảo, cách tốt nhất để chấm dứt tình cảm với một người đàn bà yêu mình điên đảo, ấy là hãy biến mình trở thành một cái gì đó tồi tệ hơn trong mắt họ, để họ tự ra đi. Chứ anh cắt, anh dập thì “lửa tâm càng dập lại càng nồng’…
Tôi đánh Hương, Hương bỏ đi cả tháng, lên khu Nhạc viện Hà Nội (nơi cô từng học) để ở, thậm chí lên tận Sơn La, Lào Cai, Điện Biên, Lai Châu để sống (nhà Hương ở thị xã Lai Châu cũ, cô hay làm việc với các đoàn nghệ thuật miền núi). Hương đi được vài ngày, bấy giờ không có điện thoại di động, nên tôi lại lo lắng, lại nhớ nhung, lại cất bước đi tìm. Có khi cả tháng không tìm gọi vợ trở về được. Cũng có lần, tôi đang tuyệt vọng thì Hương xách va ly về, xin lỗi vì nóng nảy, và chúng tôi lại mặn nồng như xưa. Tình cảm của tôi với Hương, nó cũng giằng xé chẳng kém gì việc cai lại nghiện ma túy.
Thế rồi cô ấy lại khóc hết nước mắt, nỉ non, động viên và đưa tôi lên trung tâm cai nghiện ở tỉnh Hòa Bình lần thứ ba.
Và đó cũng là lần đi cai nghiện cuối cùng trong cuộc đời một gã nghiện hết cỡ như tôi. Phúc bảy mươi đời, tôi đã không phải đợi cái chết đến thì mới từ bỏ được ma túy như lời nguyền rủa cay đắng của tôi, của những người biết lo lắng cho tôi trước đó. Được một thời gian ngắn tôi lại xin trung tâm về, lần về đó như giọt nước đã làm tràn ly, một chiếc ly đã chứa đầy sự đau khổ hận thù, như ngọn lửa cháy rừng âm ỉ chỉ ủ trong tro than nóng rẫy, chỉ cần đợi một cái cớ mỏng manh và khẽ khàng hơn cả… cơn gió - là bùng lên. Tết Nguyên đán năm 2001, tôi lại đi chơi ma túy, Hương đi tìm tôi và bắt gặp. Về nhà, Hương dứt khoát bỏ đi, vì như Hương đã nói nhiều lần trong nước mắt “không thể nào gắn mãi cuộc đời của mình với thằng nghiện”. Mẹ tôi ra can ngăn, muốn giữ Hương ở lại, Hương quá nóng giận, mất kiểm soát, cô đã đẩy mẹ tôi ngã sõng xoài ra nền nhà. Trong đau khổ tột cùng cô ấy đã nói vào mặt tôi:
- Tôi đã bỏ hết tất cả để vì anh! Đã mất hết tất cả để vì anh!
- Rời tôi ra, con bà sẽ hiện nguyên hình là một thằng nghiện, suốt đời nghiện!
Từng lời nói của cô ấy như những nhát dao đâm vào trái tim tôi đến tận bây giờ, đã sau 12 năm (tức là bằng một phần ba quãng đời mà từ lúc sinh ra đến giờ tôi đã sống!), nó vẫn còn rỉ máu khi nghĩ về câu nói ấy. Nó rỉ máu, nó nhức buốt, nó giống như cái dằm cật nứa sắc lẻm nằm trong ngực tôi vậy. Nghĩ đến những lời như nhát dao chém ấy, là tôi bủn rủn chân tay, mồ hôi túa ra. Bây giờ, những lời ấy, nó vẫn đi vào các cơn mộng mị của tôi.
Tôi đỡ mẹ mình dậy. Với những lời nói của Hương tôi hiểu thế là hết, là chấm dứt, là kết thúc một chuyện tình không có hậu, một chuyện tình chỉ có toàn khổ đau và nước mắt.
Bốn tuần sau vào ngày 23 - 2 - 2001, lại một ngày định mệnh của cuộc đời tôi đã đến. Buổi sáng chúng tôi đi ra tòa ly hôn, trước mặt chúng tôi, bà thẩm phán nói:
- Tôi làm Thẩm phán hơn hai mươi năm rồi, chuyên xét xử ly hôn nhưng chưa có cuộc ly hôn nào diễn ra nhanh chóng và nhẹ nhàng đến như vậy.
Hai đứa về rủ nhau đi ăn phở thêm một lần trong hơi ấm vợ chồng còn rơi rớt lại. Hai bát phở với bốn đôi mắt rưng rưng nước. Rồi cô ấy đi, cô ấy đã đi với một chiếc valy và vài bộ quần áo, nhẹ nhàng như lúc đến, mang theo cả trái tim khổ đau và bất hạnh cùng tình yêu đầu đời của tôi.
Tôi cố bình tĩnh cho Hương bớt đau khổ, cho Hương khỏi lo lắng quá về tôi. Nhưng thú thực, hôm đó, tôi đã hoang mang, bàng hoàng, thẫn thờ như người mộng du suốt cả ngày và nhiều ngày nữa. Thế là từ hôm nay chúng tôi không còn được gọi tên nhau trong tư cách vợ chồng ngọt ngào và cay đắng nữa, cô ấy sẽ không phải ăn những bữa cơm toàn chan bằng nước mắt ở nhà tôi, khi tôi trốn nhà đi vào xóm bụi, xóm liều đằng đẵng.
Đó cũng là buổi tối ngày 23 - 2 - 2001, ngày mà tôi đã quyết định tự tử khi vừa ly hôn với Hương vì tôi nghĩ sống cũng chẳng còn ý nghĩa gì hết, thà mình chết đi, mọi người sẽ chỉ đau một lần rồi thôi, đi chơi về đến nhà, tôi nói dối mẹ xin thêm một triệu đồng để đi làm việc riêng khẩn cấp. Rồi với số tiền đó tôi đi mua hơn một triệu bạc tiền heroin. Đến 21 giờ, xóm làng eo óc tiếng chó sủa, ếch nhái uôm oam ngoài bờ ao, đom đóm bay qua những dải nước đen kịt trong đêm. Mẹ mệt nên đi ngủ sớm. Bố thì đi họp chi bộ ngoài khu phố. Chỉ còn tôi với một cậu bạn đến chơi, tôi trốn ra đằng sau nhà và với tất cả liều ma túy tôi vừa mua được, tôi chích vào cơ thể mình. Trước khi chích, tôi muốn chào mẹ lần cuối cùng, để tôi ra đi trước, tôi sẽ chết đêm nay khi người đem mình từ cát bụi thành người, sinh thành dưỡng dục bao năm... vẫn đang thiêm thiếp ngủ. Tôi vào nhìn mẹ, mẹ già đi quá nhiều vì tôi. Nỗi đau của mẹ lên đến tột cùng rồi. Tôi mà gọi mẹ dậy nói gì đó, mẹ vẫn coi tôi là thiên thần bé của mẹ, mẹ sẽ linh cảm là tôi nói lời vĩnh quyết với mẹ ngay. Tình mẫu tử thiêng liêng và có gì màu nhiệm như có sự điều khiển của thánh thần ấy. Tôi mà muốn chết đêm nay, chia tay mẹ, chia tay ngôi nhà thơ ấu này, vĩnh biệt bầy đom đóm, tiếng ếch nhái uôm oam ngoài kia...; muốn thế thì đừng đánh thức mẹ dậy. Tôi chắp tay đứng trước đầu giường mẹ rất lâu, tôi ngàn lần muốn mẹ tha thứ, nước mắt chảy xuống tận ngực tôi, buồn nhây nhẩy. Tôi nhớ đến bố với cuộc đời binh lửa, đi xuyên qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Nhớ đến cậu tôi, cái chết bi tráng và thánh thần ở miền đất phương Nam vì Tổ quốc. Nhớ đến Hương, nhớ đến chị gái và anh rể. Tôi lặng lẽ đi ra khỏi phòng mẹ. Rút xi lanh. Một triệu tiền heroin hòa vào nước cất, tôi bơm cả vào cơ thể mình. Rút kim ra. Tôi quay cuồng trời đất và không còn biết gì nữa.
Sau này nghe mẹ và mọi người kể lại, mọi người đã hô hấp và cứu tôi suốt năm tiếng đồng hồ không tỉnh. Bố đi họp Chi bộ về nhảy qua hàng rào vào nhà, nhìn cơ thể của tôi nằm bất động trên nền gạch hoa, ông lắc đầu, mẹ bảo:
- Con nó chết rồi!
- Gọi cho con Thúy, thằng Thọ (chị gái và anh rể tôi) về làm ma thôi.
Mẹ gào khóc vật vã bên cơ thể lạnh ngắt của tôi, có người đã tính chuyện đi đóng quan tài, báo cho làng xóm, thuê phường bát âm. Tự nhiên đến 4 giờ sáng tôi tỉnh dậy, cả nhà chạy tán loạn tưởng là ma hiện hình. Ngay khi tỉnh dậy, tôi thấy người thân khóc lóc xung quanh mình, mẹ tôi suy sụp hoàn toàn, hai tay bà cứ chắp trước mặt vái vái lên bầu trời, “Tuấn ơi, con đừng bỏ mẹ. Tuấn ơi, đừng cướp công cha mẹ như thế, ối con ơi!”, “Cầu trời khấn Phật, hãy cứu lấy con tôi!”. Tôi ngơ ngác hồi lâu, rồi mọi chuyện như thước phim quay chậm tái hiện dần dần. Cơn nghiện lên đến đỉnh điểm, nỗi đau vợ nguyền rủa rồi bỏ mình ra đi trong nỗi tuyệt vọng của bản thân mình. Ma túy, sự đốn mạt, sự cướp công cha mẹ. Rồi tự tử. Con đường đó thật đáng nguyền rủa. Việc tìm đến cái chết lúc này thật hèn hạ, ích kỷ, ngu dốt nữa. Bất hiếu với cha mẹ nữa. Nước mắt tôi chảy, mắt tôi lòa đi, nước mắt chảy buồn buồn ở má, ở cổ. Tôi nhắm mắt để cố sắp xếp lại ý nghĩ đang bừa bộn trong đầu mình. Mẹ tưởng tôi hồi tỉnh rồi lại… chết, bà vẫn gào lên: “Con ơi, con đừng bỏ mẹ như thế, ối con ơi”.
Tôi mỉm cười, mở mắt: “Mẹ yên tâm. Mẹ nín đi. Còn lâu con mới chết được”. Tôi thấy mẹ mỉm cười, mẹ ôm lấy tôi. Thân hình gầy guộc mà thân thương quá đỗi của mẹ che chở tôi, tôi lại nhắm mắt lại, có cảm giác, quá khứ, hiện tại, tương lai không còn hiện hữu. Chỉ có tôi và mẹ trong ốc đảo cuộc đời. Tôi ru mình trong giấc ngủ êm đềm ấy...
Đến sáng ngày hôm sau cũng vậy, tôi thấy mình tha thẩn, không muốn làm gì, cũng không thiết tha cái gì nữa. Tất cả trôi qua như một giấc mộng buồn. Càng thức tỉnh dần, cảm giác ân hận lại càng xâm chiếm lấy tâm trí và xúc cảm của tôi. Tôi hiểu rằng, tự tử là đớn hèn. Tôi không muốn nói rằng tự tử là cách duy nhất để tôi từ bỏ nỗi đau đè nặng lên tuổi trẻ của mình, tôi không muốn người trót nghiện nào đó đi theo con đường hèn mạt đau đớn của tôi. Nhưng sự thật là tôi đã tự tử. Tôi có lý do, hoàn cảnh, số phận riêng nên mới phải làm cái việc cực chẳng đã, cái việc cả xã hội đều lên án như thế. Tôi bảo mẹ, con hứa đây sẽ là lần tự tử cuối cùng của con. Mẹ tôi nghe rồi cười thật to, mẹ biết, tôi hương mẹ nhưng luôn thương yêu cái kiểu hài hước như vậy. Trong thâm tâm, tôi cũng tự hứa với mình như vậy.
Mà cái chết lâm sàng hôm đó, nó đẩy bi kịch của tôi lên đến đỉnh điểm, rồi tôi ngộ ra nhiều điều. Nỗi hoảng loạn kinh khủng trong ánh mắt, trong hành động của mẹ trước giờ khắc (mẹ nghĩ rằng) tôi sắp biến mất vĩnh viễn khỏi cõi trần, cộng thêm nỗi ân hận, sự nguyền rủa bản thân của tôi hôm đó… - tất cả những điều đó, đã khiến tôi thực sự “lột xác”. Nỗi đau của mẹ làm cho tôi lột xác. Nhìn vào ánh mắt tuyệt vọng, khuôn mặt đau khổ đẫm nước mắt của mẹ hôm đó, tôi bàng hoàng, đau đớn nghĩ nếu không cai được ma túy, có khác gì tôi giết chết tôi và giết chết cả mẹ đẻ của tôi. Sống cho mình thì dễ, chết cho rảnh thân mình cũng dễ, nhưng sống vì chữ tình, chữ hiếu, sống vì người khác mới là khó, Tuấn ơi!
Kỳ diệu thay. Phần là vì bao nỗ lực cai nghiện suốt 5 năm, từ cai tại gia, đến trung tâm tư nhân, rồi trung tâm nhà nước; bao thứ thuốc cắt cơn hoặc tẩy trừ ma túy… có lẽ đã đến lúc phát huy tác dụng. Phần là vì quyết tâm từ bỏ ma túy của tôi bị đẩy lên đến những chiều kích tận cùng rồi. Phải đến lúc đó, tôi mới đủ sức mạnh để lựa chọn: tồn tại hay không tồn tại. Ma túy hay là chết? Làm người hay mãi mãi làm con vật nói tiếng người đi bằng hai chân? Kỳ diệu thay, nước mắt của mẹ đã một lần nữa gột rửa cuộc đời tôi. Chính mẹ, chứ không phải là ai khác, đã sinh ra tôi lần thứ hai.
Từ thời khắc thể hiện rõ sự quyết tâm dứt bỏ ma túy, tôi thấy rõ Cuộc Đời Thứ Hai của tôi bắt đầu. Tôi cứ ví von thế này, dường như không có cách ví von nào diễn tả đúng sự chuyển biến trong con người tôi nhiều nhặn đến thế: cơ thể tôi là cái máy vi tính, nó bị nhiễm virut cực độc, ấy là ma túy. Cái chết lâm sàng bất đắc dĩ mấy tiếng đồng hồ hôm 23/2/2001 ấy, lại thêm việc “tang gia bối rối”, thêm sự đau đớn, tuyệt vọng trong tiếng khóc của mẹ… đã là cú sốc lớn có tác dụng đem đến bước ngoặt cho đời tôi. Tôi đã như kẻ u mê lạc lối chợt tỉnh ngộ để tìm về nẻo thiện. Và cuộc “tỉnh ngộ” như là dịp để toàn bộ cái máy tính - cơ thể tôi được “format” lại, rồi tôi “copy” dữ liệu mới vào. Đời tôi sang một trang mới, vật lộn vươn lên làm người, cuộc sống của tôi không còn bóng dáng của ma túy nữa. Tôi tự hứa với bản thân sẽ phải xóa đi tất cả những “dữ liệu” về ma túy, phải làm lại từ đầu, chấp nhận mất dữ liệu thì vi-rút mới được diệt tận gốc. Tôi biết, tôi sẽ phải vật lộn để tránh xa “nó”, tôi sẽ phải đương đầu với hàng núi khó khăn để làm lại từ đầu, nhưng tôi thầm quyết tâm và nghĩ sẽ làm được.
Dù không nhớ, không thèm ma túy nữa, nhưng vì tôi đã sử dụng heroin và các loại thuốc an thần trong thời gian dài để gây cảm giác hưng phấn nên 6 tháng trời sau cái ngày tự tử 22/3/2001 ấy, tôi thức trắng 24/24. Cái cảm giác thức cả ngày lẫn đêm sao mà kinh khủng thế, miệng thì đắng ngắt không ăn cái gì ngon cả, mắt thì mờ đi, lúc này tôi chỉ nặng 38 kg. Cơ thể rất yếu ớt. May ra khoảng một tuần tôi chợp mắt 1 lần và vào thời gian là một tiếng đồng hồ. cái cơ thể 38 kg ấy cứ ra vào căn nhà thân yêu một mình và lặng lẽ, nhưng tôi quyết tâm lắm, khổ nỗi không ăn không ngủ được nó làm mệt mỏi, không thể nhanh nhẹn được. Mẹ tiêm thuốc H5000 bổ dưỡng cho tôi nhanh bình phục, một lần, sau khoảng hơn một tháng, tôi quá mệt mỏi vì không ngủ được nên mẹ khuyên thử sử dụng thuốc an thần “bình vôi”. Uống 6 viên thì đến 21h đêm hôm đó, tôi bị vật trở lại, hàng trăm con kiến, cái ròi rúc ráy trong xương, trong tủy, kinh hoàng không thể tả được, người tôi như cuồng dại, như không phải cơ thể của mình nữa. Tôi lao đầu vào tường cho đau đớn để khỏi phải lịm đi, nghe tiếng rầm rầm, bố mẹ chạy lên, tôi nằm sóng soài vật vã. “Con làm sao vậy con ơi?”, mẹ tôi lại khóc, tôi trả lời trong hơi thở thoi thóp: “Con không chịu nổi nữa, con con muốn chết mẹ ơi!”. Tôi đã nói khi trong cơn mê sảng của thuốc ngủ “con đi đây, con cần heroin”. “Mẹ xin con, con cai đi!”, mẹ ôm tôi, bố ôm tôi và khóc, bố tôi đi lấy khăn mặt nhúng nước lạnh rồi vào lau cho tôi, bố tôi lau đến đâu thì người tôi dịu đến đấy, tôi thấy nước làm tôi dịu lại. Tôi bảo bố trong hơi thở yếu ớt: “Bố ơi, bố dìu con ra bể nước, con chui vào ngâm, bố ở trên bố giữ đầu con bố nhé”, tôi cứ thu lu trong bể nước lơ lửng mấy tiếng đồng hồ, cái miệng bể nhỏ chỉ một người chui lọt, tôi khuỳnh hai tay ra để đỡ hai bên như gác mái chèo, bố tôi thì giữ đầu, bố tôi liên tục động viên: “cố lên con ơi!”. Mấy tiếng sau thì tôi dịu lại, tôi ngủ thiếp đi được khoảng 3o phút. Khi giật mình tỉnh dậy, do đầu gục xuống thành bể, bố vẫn kê ghế ngồi và ngủ gật xuống cạnh tôi, khuôn mặt già nua của bố chợt làm mắt tôi cay xè.
Bố thấy tôi lịch kịch liền thức dậy, ông đỡ tôi chui từ trong bể nước ra. Hơn 5 tiếng ngâm nước lạnh, làn da tôi vốn đã tái nhợt trên cái thân hình da bọc xương, nay nó càng trở nên bợt bạt như xác chết trôi. Rồi tôi nhìn mình mà thảm hại cho mình, đúng là con quỷ chứ chẳng phải con người nữa. Bố tôi lặng lẽ nhìn tôi khóc, bố ôm tôi, truyền hơi ấm cho tôi. Được một lúc thì mẹ nấu cháo mang lên cho tôi ăn. Tôi ăn cháo cùng hai hàng nước mắt lã chã. Tôi vẫn đủ tỉnh táo để nghĩ: có lẽ mình đang ăn cả tuổi thơ tươi đẹp ở đồng quê chiêm trũng, ăn cả cơn ác mộng kinh hoàng của ma túy. Bố mẹ thấy tôi khóc, ông lặng lẽ quay ra, họ hiểu tôi đang được gột rửa để tìm về nẻo thiện, tìm lại con người mình sau bao năm bị chi phối quay cuồng với ma túy. Thời gian sau, dù mất ngủ tôi vẫn không dám sử dụng thuốc ngủ thêm một lần nào nữa. Vì tôi sợ bị vật lại. Sáu tháng trời kinh hoàng, tôi lao đầu vào tường thêm vài lần nữa vì không chịu nổi thần kinh căng thẳng. Sau lần thứ ba lao đầu vào tường, bố tôi sợ quá nên đã chuyển lên ngủ với tôi cho đỡ buồn và cũng để canh chừng tôi để không lao đầu vào tường tự tử nữa. Mỗi lúc mệt mỏi quá tôi lại đi tắm, thời gian đi tắm có lúc nhiều nhất là khoảng 80 lần một ngày, nhưng đặc biệt tôi không nghĩ nhiều về ma túy nữa mà chỉ mong chóng khỏe mạnh lại thôi. Rồi tôi cũng ăn được một bữa vài hạt cơm, những hạt cơm của mẹ được nấu bằng tình thương và nước mắt, nó ngon nhưng nghẹn ngào lắm. Tôi vượt qua dần dần bằng sự cố gắng của bố mẹ và của cả tôi, ánh mắt tôi (như mẹ tôi nói) đã có hồn chứ không còn thất thần ngây dại nữa. Những lúc mất ngủ nằm lên trần nhà, tôi đều nghĩ thầm trong đầu: “tao căm thù mày lắm, ma túy ạ, mày đã hủy hoại tao và cuộc đời của tao, tao sẽ không đội trời chung với mày đâu, tao sẽ bỏ và quyết chiến với thôi, bằng mọi giá”.
Xóm giềng đã quá quen với cảnh một thằng Tuấn “nghiện”, nên bây giờ mà nghe tôi cai nghiện được thì không người tin. Có người còn nói: “Thằng Tuấn nó mà bỏ ma túy được, tôi xin chặt đầu!”.
Tôi nghe, chỉ mỉm cười, bởi lâu lắm rồi, mình chỉ biết hứa rồi lại nuốt lời, bà con không tin là phải rồi. Tôi chỉ nói ngắn gọn với bố mẹ mình:
- Bố mẹ cứ yên tâm, con sẽ bỏ ma túy được! Con sẽ làm được những điều mà không phải ai cũng có thể làm được, để chứng minh rằng trong cuộc đời không có cái gì là không thể. Và cuộc sống có những lý lẽ mà người ta không dễ gì hiểu được.
Hồi đầu, những hôm đi chơi đến nhà ai cũng vậy, những ánh mắt mọi người nhìn tôi khinh bỉ, những tiếng xì xào nhỏ to như thể tôi là thằng hủi mà mọi người cần phải cách xa, nhưng tôi cũng không thèm để ý. Đến nhà một người hàng xóm chơi, chiếc điều khiển ti-vi để trên bàn, nhìn thấy tôi họ vội vàng cất đi thật kỹ, như thể tôi sắp xông vào ăn cướp. Ra về, có lần tôi còn nghe cô ấy dạy con: Cảnh giác với thằng nghiện đấy. Cẩn thận rồi không nó lại lấy mất.
Tôi bàng hoàng lùi dần ra cổng với hai hàng nước mắt. Nghẹn ngào, đau đớn, một nỗi đau không biết đến từ đâu, chỉ biết lúc ấy trời đất tối sầm lại, tôi không nghĩ được gì nữa. Tôi ngồi sụp xuống cái bờ tường bẩn thỉu, đầy rêu mốc mà khóc. Ma túy và xi lanh chọc quá nhiều đã làm cho những ven, những mạch máu trong người tôichai sạn, tâm hồn tôi tưởng như cũng chai sạn rồi. Vậy mà hôm nay, chỉ một câu nói của người hàng xóm cũng làm tôi tan nát, thấy mọi lối ngõ trong cuộc đời mình đã bị bít kín. Tôi đã muốn gào lên với bà hàng xóm, hãy tin cháu. Nhưng tôi không làm thế.
Tôi nằm ở xó tường ấy và nghĩ, mình cứ nằm đây, cùng lắm là chết đi chứ gì, mình còn gì để mất đâu. Con ốc sên góc tường nhìn thấy tôi cũng cụp cái tua vòi cong cong trên đầu vào, nó trốn vào vỏ cứng của nó thế, có khác gì hòn đá trước mặt tôi. Những người hàng xóm cũng như con ốc sên kia, họ thu mình lại mỗi lúc trông thấy tôi. Tôi ngồi rất lâu, lâu đến mức nát cả cỏ rồi lại lăn ra chỗ khác, mùi cỏ cây bị đè nát ngai ngái, cây vảy ốc bám dọc theo chân tường ram rám. Tôi không nghĩ gì, chỉ bần thần như kẻ bị điên ngồi ngắm ốc sên và cỏ rả. Chỉ một lát sau khi tôi nhích ra chỗ khác ngồi, đám cỏ bị tôi đè rạp xuống đã lại từ từ vươn lên.
Tôi bỗng nghĩ, phận mình không bằng ngọn cỏ. Cô hàng xóm ơi, cháu biết cô không thù oán ghét bỏ gì cháu. Nhưng, cô cũng như nhiều người khác, như bố mẹ cháu, cô sợ bọn nghiện với lời hứa và đủ mánh khóe tìm ma túy của nó. Cô phải cất điều khiển tivi, như con ốc sên phải thu mình vào trong vỏ khi gặp cháu. Nhưng sao cô không nghĩ rằng tự cháu đã đẩy mình xuống đến dưới đáy thì cháu cũng có thể vươn lên làm người như cỏ. Cô ơi, sao cô không tin rằng cháu cũng là một con người có trái tim và biết suy nghĩ. Cháu biết ầu về với nẻo thiện, thì xin cô đừng xua đuổi cháu như thế nữa có được không? Nước mắt tôi lã chã rơi. Từ lúc là cậu thanh niên tuấn tú, cho đến khi nghiện oặt, dìm cuộc đời mình trong vũng cống của xã hội, tôi vẫn chúa ghét cái việc nỉ non sướt mướt, nước mắt ngắn dài! Nhưng hôm đó tôi đã khóc rất ngọt, khóc mà không cần giơ tay che gương mặt méo xẹo lã chã nước mắt của mình.
Quay cuồng, hụt hẫng, đau đớn, dằn vặt. Giữa lúc đó, tôi nhìn thấy ai như bóng mẹ, đang thất thểu bước thấp bước cao đi chợ về. Mắt tôi nhoà đi, tủi nhục, có lẽ đó là những giọt nước mắt sám hối muộn màng đang tuôn chảy cùng với cơ thể rung lên bần bật của tôi. Rồi mẹ đã nhẹ nhàng đứng trước mặt tôi, bàn tay lam lũ chai sần của bà mẹ chưa bao giờ mất niềm tin vào đứa con nghiện ấy đã già nua khô quắt lại. Mẹ giang tay kéo tôi đứng dậy, như người mẹ trẻ đang đùa giỡn với đứa con thơ tập nói, tập đi. Mẹ trở nên khỏe khoắn, vui vầy, mẹ cười, gọi tôi là “thằng cu của mẹ sao lại ngồi ở xó tường muỗi dĩn thế này?”. Tôi quên tôi ở cái tuổi có thể có vợ có con từ lâu, tôi quên mẹ tóc bạc da mồi thân hình tiều tụy. Tôi muốn vùng lên khỏi đám tường rêu mốc, muốn tung tăng cùng mẹ trong buổi chợ về, làm một cậu bé được tưới tắm bởi xu bánh đa vừng trong bài hát về “con sông quê” quen thuộc.
Lòng mẹ bao la và sâu sắc, mẹ sớm lờ mờ hiểu ra chuyện gì khiến tôi suy sụp trong xó tường đến vậy. Nhưng tôi nhớ là hôm đó mẹ không nói gì cả. Mẹ luôn giấu những khổ đau vào phía sau nụ cười. Dĩ nhiên là mẹ cũng đau đớn, khắc khoải cùng nỗi chua xót đến tê tái của tôi. Tôi để ý, thấy về đến cổng nhà mình thì mẹ khóc. “Về nhà mình đi con! Về mẹ nấu canh rau tập tàng với tép cho con ăn”. Mẹ dỗ dành tôi, lại giống y như cảnh người mẹ trẻ dỗ dành đứa con ba bốn tuổi ăn cháo ăn bột năm nào.
Nhìn mẹ mà tôi không nói nên lời, cũng không thể khóc được nữa, có cái gì đó nó cứ dâng lên trong lòng rồi lại chìm xuống. Từ trong tâm khảm, tôi bừng tỉnh và hiểu, chỉ có hành động, và hành động thì mới xoá đi được nỗi đau cho mẹ. Đúng là trái tim của mẹ luôn bao dung và độ lượng, với tình thương vô bờ bến dành cho tôi. Chính những con tôm cái tép, những bát canh rau tập tàng cùng tình thương của mẹ đã đưa tôi vượt qua những tháng ngày khốc liệt, đau thương nhất của cuộc đời. Tôi tự hiểu chỉ có một con đường là phải bỏ ma túy, bỏ bằng được, dù chỉ “sống lại làm người” kiếm ăn với nghề xe ôm bình thường thôi cũng được, miễn sao để bố mẹ vui và ít nhiều để mình cũng trở thành kẻ có ích cho xã hội. Quyết tâm nhé, nhất định mình phải quyết tâm và làm bằng được cái việc trừ khử ma túy ra khỏi cơ thể mình. Tôi chan canh rau tập tàng nấu tép mà cứ nghĩ miên man. Tôi dùng thìa đưa cơm canh lên… mũi, khiến mẹ bật cười xúc động. Mẹ hiểu, tôi đang nghĩ rất nhiều và chưa bao giờ tôi quên cái quyết tâm bỏ ma túy để khỏi phụ công mẹ, nhưng hành trình hoàn lương ấy chông gai quá. Tôi ăn món canh rau tập tàng nấu tép như là ăn vào miền ký ức tuổi thơ của mình. Đôi khi, một hương vị quê nhà, một món ăn quen thuộc, nó ngon, nó làm ta xôn xao nhớ, là bởi vì nó là món ăn, là hương vị đến từ quá khứ, từ ký ức. Người ta sống vì những ám ảnh quá khứ phần nhiều, chứ chắc gì đã chỉ vì những cái đang hiện hữu…
Tôi hiểu! Để làm lại cuộc đời là điều vô cùng khó, người như tôi, để phấn đấu trở thành một người lương thiện là phải trải qua rất nhiều tháng ngày gian nan và vất vả, hứng chịu đủ mọi lời đàm tiếu, nhưng tôi tự nhủ mình phải cố gắng vươn lên, vượt qua hết những lời đồn đại. Dẫu vậy, búa rìu dư luận vẫn liên tục giáng xuống đầu tôi. Những buổi đi họp của bố, những khuôn mặt sạm đen của đồng đội tiếp tục “đấu tố” bố tôi, nỗi tủi nhục của người lính trong thời bình ngày càng hằn sâu trong ông. Trong cái hốc mắt của bố tôi, có cảm giác không còn nước mắt để khóc nữa. Mẹ tôi vẫn tha thẩn đi về khuôn mặt héo hon và niềm tin mãnh liệt liên tục bị thất vọng... vào một ngày con trai thoát khỏi ma túy. Mẹ bảo: “Tao vừa đi nhà bà Hồng Đ về, bà ấy không lần nào đi họp mà không nói cả, nhục lắm con ơi! Con cố lên con!”. Tôi rất choáng váng nhưng chỉ biết động viên mẹ: Đừng để ý tới họ nữa, con sẽ cai bằng được mẹ à”. Những đôi mắt khinh bỉ, những cú tránh mặt khi đi cùng ngõ làm cho tôi hiểu, mình không trách họ, không trách xã hội được, vì tất cả do mình gây ra. Tôi luôn tự trấn an mình như vậy, rồi hàng xóm xì xào: “lại bắt cóc bỏ đĩa đây thằng đấy có mà cai!”.
Nhục, rất nhục! Đau đớn lắm!
Nhưng vì cha mẹ, tôi bỏ ngoài tai hết, đôi lúc chỉ mỉm cười, ý rằng, rồi đây, thời gian sẽ trả lời quý vị: tôi đã đánh đổi mạng sống của mình để lấy việc tẩy hết ma túy khỏi cơ thể, quý vị không tin phải không? Hãy đợi đấy. Và tôi lại mỉm cười.
(Còn tiếp)
Địa chỉ: Tầng KT - Tòa nhà 21T1 - Khu đô thị Hapulico - 83 Vũ Trọng Phụng - Thanh Xuân - Hà Nội.
Email: phongchongmatuy.vn@gmail.com | Facebook: Viện PSD